Text Box: TIN VUI

  

 

 

 

 


 

Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

 

SỐ 62 CN 26.11. 2006

 

Chúa Nhật XXXIV Thường Niên

Lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.

ĐỐI CHIẾU..

Buổi Cầu nguyện đại kết và Thánh lễ Chúa Nhật 19/11/2006.

cho các thành viên hội nghị APEC..

Bộ Phim ''Câu Chuyện Giáng Sinh'' sẽ được chiếu giới thiệu tại Vatican vào ngày 26 tháng 11 

TÀI LIỆU TUẦN THƯỜNG HUẤN LINH MỤC GIÁO PHẬN ĐÀLẠT 2006.

TÌNH YÊU THEO THÔNG ĐIỆP “THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU” CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊĐICTÔ XVI

Chiều kích thiên linh của tình yêu..

Tình yêu là eros và agape.

Tình yêu không chỉ là cảm xúc  nhưng còn là sự hiểu biết và ý chí

Hướng mắt nhìn “Đấng họ đã đâm thâu”.

MỖI NGƯỜI LÀ MỘT VƯỜN HOA..

BẢN ĐỒ TÂN TRUNG ĐÔNG..

Lễ tế ngu trong tang lễ người Việt.

CHUYẾN ĐI CUỘC ĐỜI

TÂM SỰ VỚI NGƯỜI ĐÃ KHUẤT..

CECILIA, TRINH NỮ LẬP GIA ĐÌNH VÀ TỬ ĐẠO..

Hóa đơn..

YÊU, MỘT VŨ ĐIỆU HAI NHỊP..

GIÃ TỪ QUÁN TRỌ..

( Tiếp theo và hết ).

 

 

 

Text Box: SỐNG LỜI CHÚA
 

 

 


 

Chúa Nhật XXXIV Thường Niên

Lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ

 

 

Ga 18, 33b-37)

Khi ấy, Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” Đức Giêsu đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi?” Ông Philatô trả lời: “Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi.. Ông đã làm gì?” Đức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.

 

Các bạn trẻ rất thân mến,

Thế là hôm nay chúng ta đã bước vào tuần cuối cùng của chu kỳ phụng vụ hằng năm, và Giáo hội đã dùng những ngày này để long trọng mừng kính Ðức Giêsu Kitô là Vua Hoàn Vũ. Vâng theo tôi, có lẽ Giáo hội muốn cho chúng ta thấy rằng tất cả các biến cố trong một chu kỳ hằng năm ấy đều qui về Ðức Kitô, một Ðức Kitô là Vua hoàn vũ.

Lật lại Kinh thánh thì không ít lần chúng ta thấy Kinh thánh đề cập đến việc làm vua của Ðức Giêsu. Các ngôn sứ trong thời Cựu ước đã không ngừng loan báo về một Ðấng Mêsia, Ðấng phải đến trong thế gian. Chính Người sẽ dùng roi sắt mà cai trị muôn dân. Rồi trong Tân ước, các sách Tin Mừng đã nhiều lần đề cập đến việc người ta muốn bắt Người để tôn xưng Người làm vua, sau khi Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Cũng vậy, khi Người cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, dân chúng hai bên đường đã trải áo, tay cầm nhành là và miệng tung hô Người là Con Vua Ðavít. Người ta đã trông chờ Ðức Giêsu như một người sẽ làm cuộc cách mạng vĩ đại để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ. Còn đối với tôi, mỗi lần ngước nhìn lên thập giá, tôi thầm xác tín một điều : "Phải, Người là vua. Vua tình yêu". Người đã trở thành một vị vua được đăng quang trên thập giá. Bởi lẽ, trước mắt thế gian, Người đã chẳng trở thành một kẻ ôm mối tình điên đó sao ? Người đã chẳng tạo nên một bộ trang phục diệu kỳ của một vị vua dám chết vì yêu đó sao ? Trang phục đó như thế nào ?

Thưa : Triều thiên đội trên đầu Người chẳng phải là vòng gai nhọn đó sao ? Vương trượng của Người chẳng phải là những chiếc đinh nhọn đó sao ? Người đã chẳng mặc long bào là những vết roi đẫm máu đó sao ? Và ngai vàng của người chẳng phải là cây gỗ nặng nề thô nhám mang hình thập tự đó sao ?

Vâng, một lần nữa tôi lại thầm xác tín: "Phải, chính Người là vua".

Thưa các bạn,

Trong đêm Phục sinh, khi chúng ta nghe công bố bản trường ca "Exultet" (vui mừng lên), thì chúng ta đã vui mừng vì "tội hồng phúc". Phải, vì chính nhờ đó mà Thiên Chúa đã sai chính Con Một Người là Ðức Giêsu Kitô xuống trần gian, mặc lấy xác phàm và trở thành "Trưởng tử giữa một đàn em đông đúc" là chúng ta. Và qua cái chết và phục sinh của Người, chúng ta đã được sống lại trong mối tương quan "Cha con" với Thiên Chúa. Từ đây, chúng ta có thể kêu lên hai tiếng "ABBA, Cha ơi". Phải, ai có thể làm được điều ấy nếu không phải là một vì Thiên Chúa, một vị Vua.

Các bạn thân mến,

Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, một lần nữa Giáo hội lại cho chúng ta thấy Thiên Chúa chính là Vua, khi Người đứng trước tòa, tổng trấn Philatô đã cật vấn: "Ông là vua sao ?". Và lần ấy chính Ðức Giêsu đã thẳng thắn công nhận: "Phải, tôi là Vua". Nhưng Người còn thêm: "Nước tôi không thuộc về thế gian này". Thế thì Nước Người ở đâu ? Phải chăng nước đó cũng cần phải có một vị trí địa lý một cách cụ thể chăng ?

Không, thưa các bạn, nước của Người đã đến và ở giữa chúng ta. Chúng ta biết thế, nhưng hình như nó vẫn còn có vẻ mơ hồ nào đó phải không các bạn ?

Vâng, sẽ không có gì là mơ hồ hay vu vơ cả, nếu một lần nữa chúng ta xác định lại : Nước Trời đang ở giữa chúng ta. Bởi chưng đó là Nước tình thương. Bởi chưng đó là quốc gia của lòng mến. Bởi chưng đó là đất nước của chân lý, của sự thật.

Chính Ðức Giêsu đã nói: "Tôi sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi".

Còn chúng ta, thưa các bạn, chúng ta thì sao ?

Có bao giờ chúng ta nhìn lại mình và đặt mình vào hàng ngũ của sự thật hay không ? Có bao giờ chúng ta đối diện một cách thật gần, thật chân thành với sự thật hay chưa ?

Và sự thật chúng ta đối diện là sự thật nào ?

Thưa các bạn, có lẽ tôi đã hơi vô lý khi hỏi các bạn điều đó chăng ? Vì đã là sự thật thì làm gì còn có sự thật này hay sự thật khác ? Không, ở đây tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều là : Chân lý tối hậu hay sự thật sau cùng ấy không gì khác hơn phải là chính Ðức Giêsu Kitô.

Vậy các bạn đã bao giờ đối diện một cách thật gần gũi và thân mật với Người hay chưa ? Nếu chưa, thì tôi xin các bạn hãy một lần tìm đến với Người và tôi cam đoan với các bạn, chính Người là sự thật và sự thật sẽ giải thoát các bạn. Tại sao chúng ta lại không thử một lần xem sao ?

Cái khổ của chúng ta có lẽ là chúng ta còn quá ích kỷ và bám chấp vào những thực tại trước mắt, đến nỗi chúng ta quên rằng đằng sau những thực tại ấy, Thiên Chúa vẫn hiện diện và đồng hành. Thiên Chúa vẫn ở đó như một sự thật bất biến, và tất cả chúng ta dù có như thế nào, chúng ta vẫn phải qui hướng về Người là sự thật tối hậu và thiện hảo.

Vâng,

 

Nếu các bạn đã dám tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Vua thì các bạn hãy hết lòng tin tưởng và trung thành với vị Vua ấy. Có điều, chúng ta đã mang thân phận con người yếu đuối, không khỏi sẽ có lúc chúng ta nghi ngờ, bất trung vàthất tín. Nhưng trong tất cả các bạn hãy có lòng hy vọng, vì Vị Vua đầy lòng nhân hậu ấy sẽ không bỏ mặc chúng ta trên bước đường trần gian còn nhiều chông gai này. Chúng ta hãy xác tín vào điều ấy và xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta. Amen.

Gioan Nguyễn Thiên Minh, OP.

Mục lục

Text Box: CON ĐƯỜNG TU ĐỨC

  

 


 

ĐỐI CHIẾU

Đất nước ta đang biến chuyển mạnh. Ngoại lực tràn vào. Nội lực vùng lên. Đây là cơ hội tốt, để đạo Công giáo chúng ta chứng minh giá trị của mình.

Để giúp cho sự chứng minh sinh hiệu quả tốt, chúng ta cần chọn cách chứng minh.

Trong suy nghĩ đó, tôi xin phép nhắc lại một tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn này dựa trên Phúc Âm, Công Đồng Vatican II, các thư chung mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam và thực tế đang biến chuyển.

Tôi gọi tiêu chuẩn này là đối chiếu.

Theo tiêu chuẩn này, khi tôi toan tính nói gì, làm gì để phục vụ vì mục đích làm chứng cho Chúa, trước hết tôi phải đối chiếu dự định của tôi với Lời Chúa và đời Chúa Cứu thế.

1/ Đối chiếu với Lời Chúa và đời Chúa Giêsu

Chúa Giêsu đã phán: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người" (Ga 4,34).

"Thầy không tìm cách làm theo ý riêng Thầy, nhưng theo ý Đấng đã sai Thầy" (Ga 5,30).

Thánh ý Chúa Cha nơi Đức Giêsu Kitô là gì? Thưa là công việc cứu chuộc nhân loại được hoàn tất ở sự Đức Kitô diễn tả tình yêu của Người bằng cách dâng mạng sống mình trên thánh giá. Chính tình yêu tự nguyện hiến mình trên thánh giá đã trở thành nguồn sức thiêng thay đổi lòng người và cuộc sống con người.

Khi đối chiếu dự định phục vụ của tôi với Lời Chúa và gương đời Chúa Giêsu, tôi sẽ cầu nguyện và lắng nghe tiếng lương tâm trả lời: Dự định của tôi có phản ánh đúng tình yêu hy sinh của Chúa Cứu thế hay không. Nếu đúng, nó sẽ được gắn vào nguồn ơn cứu độ. Nếu không, nó sẽ đi trệch ra ngoài. Và trong trường hợp như thế, cho dù nó mang đủ các hình thức đạo đời có vẻ đạo đức, nó vẫn khô cằn, không đưa được lòng người và tình hình xã hội vào con đường đạo đức.

Việc đối chiếu dự tính của ta và chính bản thân ta với Chúa Giêsu là việc đòi một thái độ hồi tâm sâu lắng, khiêm nhường và nghèo khó, đơn sơ. Tu đức luôn nhắc đi nhắc lại điều quan trọng đó. Ngoài sự đối chiếu với Lời Chúa và gương Chúa Giêsu, chúng ta còn cần đối chiếu dự định của ta với nhu cầu xã hội trong thời điểm nhất định.

2/ Đối chiếu với nhu cầu xã hội trong thời điểm nhất định

Phục vụ là đáp ứng đúng nhu cầu, đúng lúc, đúng cách, đúng nơi.

Khi hiểu phục vụ là như thế, thì ta không nên làm bất cứ sự gì ta thích làm, nhưng phải làm điều xã hội đang cần lúc này, chỗ này.

Nói chung, xã hội Việt Nam lúc này đang thiếu nhiều sự, cần nhiều cái, đợi trông nhiều điều.

Quan sát, khảo sát kỹ, chúng ta thấy tôn giáo không thể đáp ứng tất cả mọi nhu cầu. Tuy nhiên, về mặt vật chất, chúng ta vẫn có thể chia sẻ phần nào. Dù với một phần bé nhỏ, nhưng nếu cách chia sẻ của ta tế nhị, thì đồng bào ta vẫn trân trọng những phục vụ khiêm tốn của ta.

Ngoài mặt vật chất, xã hội Việt Nam lúc này đang rất cần được trợ giúp về mặt đạo đức.

Đạo đức là lãnh vực bao la, nhưng trong lãnh vực bao la này, con người Việt Nam lúc này rất nhạy cảm trước những giá trị của đạo làm người và đạo làm người Việt Nam.

Những giá trị thuộc đạo làm người như tinh thần trách nhiệm, khiêm tốn, ngay thực, tương thân tương ái, sám hối và lòng biết ơn.

Những giá trị thuộc đạo làm người Việt Nam như sự tự hào về non sông đất nước, lòng hiếu thảo đối với tổ tiên và tất cả những người đã có công dựng Nước, giữ Nước, và thao thức giải cứu Đất Nước khỏi những bất công, mọi thứ nô lệ, mọi thứ tranh giành bất chính, mọi hình thức chia rẽ và hẹp hòi.

Khi đối chiếu lòng tốt của ta với nhu cầu xã hội Việt Nam trong thời điểm này, chúng ta dễ thấy bổn phận nào nên được ta chọn là ưu tiên trong cộng tác với những người tốt phục vụ xã hội.

Nếu không tỉnh tảo và khôn ngoan, cứ để lòng tốt của mình tập trung vào việc phục vụ đạo mình theo chủ quan của ta, còn nhu cầu xã hội vẫn bị dửng dưng, thì sẽ khó chứng minh được đạo ta là tốt.

Trong việc đối chiếu với xã hội, chúng ta cũng sẽ nhận ra mình đang tiến hay đang tụt hậu về phương diện nào đó. Nhận thức về sự thực này là điều rất cần cho chúng ta. Ngoài việc đối chiếu với Phúc Âm, với xã hội, thiết tưởng cũng còn một đối chiếu khác không nên coi thường, đó là đối chiếu với các tôn giáo bạn.

3/ Đối chiếu với các người theo tôn giáo khác và tín ngưỡng khác

Việt Nam là nước đa tôn giáo, đa tín ngưỡng. Nhiều người theo đạo khác ta và tín ngưỡng khác ta, nhưng lại được đánh giá là đạo đức hơn bao người công giáo ta. Nhiều gương sáng về bác ái, hiếu thảo, tu trì, sám hối, khiêm nhường đã xuất hiện một cách hấp dẫn ở những bầu trời đạo khác. Nhiều giá trị về trí thức, về văn hoá đã và đang được rạng rỡ mà không cần đến các cộng đoàn đức tin công giáo. Đó là sự thực. Sự thực này khiến ta phải suy nghĩ rất nhiều.

Ba đối chiếu trên đây đòi ta phải biết mở rộng tầm nhìn. Tầm nhìn nói đây nhắm vào thực tế hơn là lý thuyết. Nhưng mọi thực tế đều không đơn giản. Để kết, tôi xin phép kể lại một kỷ niệm nhỏ của đời tôi.

Hồi còn là linh mục sinh viên tại Pháp, một hôm, tôi được mời đến họ đạo không có linh mục, để làm lễ an táng.

Nhà thờ vắng vẻ, thời tiết lạnh giá. Tôi một mình dọn bàn thờ và đồ lễ. Một lát sau, xe chở quan tài tới. Đội mai táng khiêng quan tài vào để giữa nhà thờ. Đợi ít phút, chẳng một ai tới. Tôi bắt đầu dâng lễ. Nhìn xuống, tôi thấy đội mai táng cũng đã lặng lẽ rút ra khỏi nhà thờ. Tôi làm lễ một mình với xác chết. Lễ xong, đội mai táng đưa quan tài lên xe. Còn một mình tôi dọn dẹp đồ lễ và khoá cửa nhà thờ. Rất có thể nơi đó, lúc đó, người ta coi thánh lễ như thế là bình thường.

Thánh lễ an táng đó đã qua lâu rồi. Nhưng có một đối chiếu vẫn sống động trong tôi. Tôi đối chiếu: Một bên là lòng đạo, một bên là nếp sống vật chất thực dụng. Nếu cứ để tự chọn thoải mái, thì nhiều người sẽ ngả sang bên vật chất, thực dụng. Biến chuyển này xảy đến rất mau, dễ lan tràn rộng rãi, để trở thành thói quen bình thường.

Cầu xin Chúa cho ta và cộng đoàn của ta biết sự thực của biến chuyển đó, để luôn nhớ rằng: Giữ đạo phải là một cuộc đào tạo và chiến đấu thiêng liêng thường xuyên, để luôn biết sửa mình, tỉnh thức, chu toàn thánh ý Chúa trong sám hối và cậy trông ở lòng thương xót Chúa.

ĐGM. GB.  Bùi Tuần

Mục lục

Text Box: HIỆP THÔNG GIÁO HỘI
 

 


 

Buổi Cầu nguyện đại kết và Thánh lễ Chúa Nhật 19/11/2006

cho các thành viên hội nghị APEC

Tổng thống W. Bush tham dự buổi Cầu nguyện đại kết Công giáo - Tin lành tại Nhà Thờ Giáo Xứ Cửa Bắc, Hà Nội; và bà Tổng thống Philippine cùng phái đoàn tham dự Thánh lễ tại Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội.


Tổng thống W. Bush tham dự buổi Cầu nguyện đại kết Công giáo - Tin lành tại Nhà Thờ Giáo Xứ Cửa Bắc, Hà Nội (Nhà thờ Cửa Bắc, Hà Nội, được xây dựng từ năm 1927).


 

Tin Hà Nội, Việt Nam (19/11/2006) - Trước khi Tổng Thống George W. Bush lên đường đi Việt Nam để tham dự Hội Nghị thượng đỉnh của Tổ Chức Hợp Tác Kinh Tế Á Châu Thái Bình Dương gọi tắt là APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation), chính phủ Hoa Kỳ đã đưa Việt nam ra khỏi danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về vấn đề tự do tôn giáo (CPC - Countries of Particular Concern).

Chiều ngày 13/11/2006 (tức sáng ngày 14/11/2006 giờ VN), Bộ Ngoại giao Mỹ chính thức thông báo đưa Việt Nam ra khỏi danh sách "những quốc gia đặc biệt quan tâm" (CPC) về tôn giáo. Phát biểu khi công bố quyết định trên, ông John Hanford, Ðại sứ về tự do tôn giáo quốc tế thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ, cho hay: "Việt Nam là quốc gia đầu tiên được đưa ra khỏi danh sách CPC trong năm nay". Danh sách CPC về tôn giáo được Bộ Ngoại giao Mỹ công bố hàng năm kể từ năm 1999, chiếu theo các điều khoản quy định trong Ðạo luật về tự do tôn giáo của Mỹ. Tuy vậy, nhiều cơ quan và tổ chức quốc tế khác vẫn còn đặc biệt quan tâm về tình trạng tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Một trong những điểm quan trọng đối với đời sống riêng của Tổng Thống Bush là đức tin của ông và đức tin này cũng hướng dân ông có những dự án xã hội muốn dựa vào các tổ chức tôn giáo, như đã thấy trong những năm đầu trong thời tổng thống của Ông. Do vậy mà Tổng thống Hoa Kỳ cũng bị áp lực nặng nề để thúc đẩy chính quyền Hà Nội nới rộng tự do tôn giáo cho dân chúng Việt Nam hơn.

Trong thời gian Hội Nghị thượng đỉnh của Tổ Chức Hợp Tác Kinh Tế Á Châu Thái Bình Dương gọi tắt là APEC được tổ chức tại Việt Nam, ngoại trừ những đề tài về kinh tế được chính thức bàn thảo trong đại hội, Việt Nam cũng tổ chức nhiều sinh hoạt về văn hóa và tôn giáo để cho các nhà lãnh đạo thế giới được dịp nhìn thấy tình hình Việt Nam hiện nay. Ðặc biệt là biến cố Tổng thống W. Bush tham dự buổi Cầu nguyện đại kết Công giáo - Tin lành tại Nhà Thờ Giáo Xứ Cửa Bắc, Hà Nội; bà Tổng thống Philippine cùng phái đoàn tham dự Thánh lễ tại Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội. Ngoài ra, các nhà lãnh đạo cũng được dịp xem các biểu diễn về văn hóa Việt Nam, như Múa Rối nước, các điệu vũ của người dân tộc thiểu số... Việt Nam cũng đã huấn luyện cho 21 cô gái Việt Nam chuẩn bị để giúp các nhà lãnh đạo thế giới mặc những chiếc áo dài truyền thống Việt Nam trong dịp trình bày Văn Hóa Việt Nam.

Sáng ngày Chúa Nhật, 19 tháng 11 năm 2006, ông bà Tổng thống Mỹ đã đến tham dự một buổi cầu nguyện đại kết tại Nhà Thờ giáo xứ Cửa Bắc, Hà Nội. Ðây là lần đầu tiên Giáo hội Công giáo và Tin lành tại thủ đô Hà Nội có một buổi cầu nguyện chung với nhau. Và sự hiện diện của ông bà Tổng thống cùng các quan chức cao cấp của chính phủ Hoa kỳ thật có ý nghĩa. Cùng tham dự giờ cầu nguyện, có Ðức Tổng Giám Mục Hà Nội, Giuse Ngô Quang Kiệt, cha Tổng đại diện, một số linh mục, một số mục sư và khoảng 500 tín hữu Công giáo và Tin lành. Chủ đề của buổi cầu nguyện là "Giới luật yêu thương". Những bài thánh ca được chọn từ kho tàng thánh ca của Công giáo và Tin lành xen giữa những đoạn Lời Chúa được đọc lên bởi các linh mục và mục sư làm cho buổi cầu nguyện diễn ra thật sốt sáng. Mọi người được lắng nghe lại lệnh truyền của Thầy chí thánh Giêsu "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Những lời của Chúa mời gọi mọi người cần phải biết luôn yêu thương nhau, hiệp nhất với nhau và cùng nhau làm chứng cho Chúa. Giờ cầu nguyện kết thúc bằng "kinh hòa bình" của Thánh Phanxicô như muốn nhắn nhủ tất cả mọi người phải cùng nhau xây dựng một thế giới hòa bình.

Buổi cầu nguyện hôm Chúa Nhật 19/11/2006 mở ra một cơ hội thật tốt để tín hữu Công giáo và Tin lành xích lại gần nhau hơn. Hy vọng sẽ có nhiều buổi cầu nguyện như thế này trong tương lai.

Sau khi tham dự giờ cầu nguyện đại kết giữa Giáo hội Công giáo và Tổng hội Tin lành tại Nhà thờ giáo xứ Cửa Bắc, Hà Nội, Tổng thống Mỹ George W. Bush đã phát biểu: "Laura và tôi, chúng tôi vừa có những giây phút trò chuyện với Chúa. Ðó là những giây phút thật tuyệt vời. Trong các quyền tự do của con người, không có quyền nào cao hơn quyền được tự do thờ phượng theo cách mà mình mong muốn. Chúng tôi xin cám ơn những người đã đứng ra tổ chức buổi cầu nguyện này. Một xã hội toàn diện là một xã hội đón nhận các quyền tự do căn bản, và không có tự do căn bản nào nền tảng hơn - đó là tự do thờ phượng thích hợp với bạn. Và Laura cùng tôi hãnh diện thờ phượng với những người có niềm tin tại Hà Nội đây. Và một lần nữa, chúng tôi cám ơn các Giáo Hội cho chúng tôi cơ hội đến đây. Hy vọng của tôi là tất cả mọi người khắp nơi trên thế giới đều có thể diễn tả tự do tôn giáo. Và đó là cách biểu lộ niềm tin riêng của chúng ta, đồng thời thúc đẩy xã hội cảm thấy thoải mái và tin tưởng nói với đồng bào của mình rằng nếu bạn cảm thấy thích cầu nguyện với Thượng Ðế bạn được quyền làm như thế trong bất cứ cách thức nào thích hợp với bạn. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành, và cám ơn."

Cùng với giờ diễn ra buổi cầu nguyện đại kết tại Nhà Thờ Giáo Xứ Cửa Bắc, thì tại nhà nguyện Fatima ở Tòa Tổng Giám mục Hà Nội, cha Giám đốc Ðại Chủng Viện Giuse Hà Nội và cha đặc trách người nước ngoài đã dâng thánh lễ cho phái đoàn của Tổng thống Philippine. Bà Arroyo, Tổng thống Philippine cùng với con gái và đoàn tùy tùng đã tham dự thánh lễ một cách sốt sáng. Sau thánh lễ, bà Tổng thống và phái đoàn đã chụp hình lưu niệm với các linh mục và những người phục vụ.

Ðược biết, Hội nghị thượng đỉnh của Tổ Chức Hợp Tác Kinh Tế Á Châu Thái Bình Dương gọi tắt là APEC đã bế mạc hôm ngày 19/11/2006. Tại buổi bế mạc, 21 nhà lãnh đạo của các nền kinh tế thành viên APEC đã xuất hiện trong trang phục áo dài truyền thống Việt Nam. 21 bộ áo dài truyền thống cho các vị lãnh đạo các nền kinh tế thành viên APEC đã được nhà tạo mẫu Minh Hạnh thiết kế. Ða số các nhà lãnh đạo chọn màu áo màu xanh dương.

Sau bài phát biểu của Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, các nhà lãnh đạo đã chụp ảnh kỷ niệm ở bên ngoài Trung tâm hội nghị quốc gia, kết thúc nghi lễ cuối cùng của Hội nghị thượng đỉnh APEC lần thứ 14. Nghi lễ chụp ảnh trong trang phục truyền thống của nền kinh tế chủ nhà lâu nay được coi là nghi lễ chính thức của hội nghị thượng đỉnh APEC.

Chuẩn bị trong vòng 8 tháng với gần 100 mẫu thiết kế ban đầu, nhà tạo mẫu Minh Hạnh - Viện trưởng Viện Thời trang Fadin - đã hoàn tất 21 bộ áo dài truyền thống cho 21 lãnh đạo các nền kinh tế thành viên APEC.

Với ý tưởng chiếc áo dài của người quân tử điểm những bông sen tượng trưng cho sự thanh cao, tinh khiết, bộ sưu tập này được xem là kỳ công từ đường kim mũi chỉ, đến từng hoạ tiết, màu sắc... Nhà tạo mẫu Minh Hạnh cho biết:

"Chính phủ đề xuất Bộ Công nghiệp đứng ra chủ trì việc thiết kế trang phục cao cấp này và Bộ Công nghiệp giao lại cho Tập đoàn Dệt may Việt Nam, sau đó đến Viện Thời Trang Fadin. Tôi đã làm thử 30-40 mẫu, trong đó có họa tiết logo APEC, hoa sen... để trình duyệt. Cuối cùng, mẫu thiết kế trên chất liệu tơ tằm cao cấp Việt Nam với họa tiết hoa sen được thông qua. Hoa sen tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao và tinh khiết, là biểu tượng cho nét văn hoá Việt qua cách tiếp cận của các nước. Chất liệu tơ tằm cao cấp Việt Nam được xem là hàng sang bậc nhất, vốn được khách nước ngoài ưa chuộng. Ðặc biệt, trong cuộc họp Hội đồng Tư vấn kinh doanh APEC (ABAC) vừa qua, bộ áo bà ba có họa tiết rồng bay đã chinh phục các quan khách. Do đó, tuỳ theo cấu trúc dệt để làm 21 bộ và không có thêm chiếc áo nào khác. Tất cả tuân theo một kiểu nhưng có 5 màu".

 

(Joseph Trương)

 

Mục lục

 

Bộ Phim ''Câu Chuyện Giáng Sinh'' sẽ được chiếu giới thiệu tại Vatican vào ngày 26 tháng 11

 Tin Vatican (Zenit 19/11/2006) - Theo tin của hãng thông tấn Zenit, thì bộ phim có tựa đề: "Câu Chuyện Giáng Sinh" (The Nativity Story), sẽ được chiếu giới thiệu trước tiên tại Ðại Thính Ðường Phaolô VI, trong nội thành Vatican, vào ngày 26 tháng 11 năm 2006, cho khoảng 7,000 khán thính giả.

Phim "Câu Chuyện Giáng Sinh" mô tả cuộc sống của Mẹ Maria trong năm có những biến cố quan trọng như: Mẹ sinh hạ Chúa Giêsu, Các Mục Ðồng đến thờ lạy Chúa Hài Ðồng, Các Ðạo Sĩ từ Phương Ðông đến kính viếng Chúa tại Bêlem, Vua Hêrođê tàn sát những trẻ thơ vô tội, và Thánh Gia Ðình trốn sang Ai Cập tị nạn.

Phim do hãng "Ðường Hướng Mới" (New Line Cinema) sản xuất, với sự điều khiển của đạo diễn Catherine Hardwicke.

Trước lúc bắt đầu trình chiếu phim "Câu Chuyện Giáng Sinh", Ðức Tổng Giám Mục Angelo Comastri, Tổng Ðại Diện của Ðức Thánh Cha đặc trách mục vụ tại Nội Thành Vatican, sẽ đọc lời nguyện và trích đọc một đoạn Phúc Âm. Kế đến, Ðức Tổng Giám Mục John Foley,chủ tịch Hội Ðồng Toà Thánh về Truyền Thông Xã Hội, sẽ nói vài lời giới thiệu phim. Mục đích của buổi chiếu giới thiệu lần đầu tiên phim "Câu Chuyện Giáng Sinh", là để gây quỹ xây cất một trường học tại thị xã Mughar, tại quốc gia Israel, nơi thành phần dân chúng gồm có người Kitô, người Hồi giáo và nguời Druze. Thị xã Mughar này nằm cách Nazareth khoảng 40 cây số. Sau lần chiếu giới thiệu vào này 26 tháng 11 năm 2006, phim "Câu Chuyện Giáng Sinh" được dự định khởi chiếu nơi các rạp thương mại trên thế giới, bắt đầu từ ngày 1 tháng 12 năm nay 2006.

Theo ông Peter Malone, nhà phê bình phim, thuộc tổ chức Signis, tức Hiệp Hội Quốc Tế của Công Giáo về Truyền Thông Xã Hội, thì phim "Câu Chuyện Giáng Sinh" có ý nghĩa hay cho người Kitô lẫn những anh chị em không kitô. Diễn tiến câu chuyện dựa trên Kinh Thánh Cựu và Tân Uớc.

LM Đặng Thế Dũng

 

Mục lục

 

 

Text Box: TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

  

 


 

KINH CHIỀU

            

  Lời nguyện trước mùa VỌNG.( Lễ Chúa Kytô Vua )

               Lay Chúa ,

                             “Lại một  NOEL nữa ,

                               Mấy mùa Giáng sinh rồi …”

               Những bài hát về một thời gian đẹp nhất của một năm lại đang vang lên trong từng gia đình Công giáo,nơi quán cà phê trong xóm đạo. Đông về một chút heo may len vào một cách hiếm hoi ở vùng nhiệt đới Việt Nam làm lòng con cũng mềm đi theo tiếng nhạc, theo cái lành lạnh của chớm bình minh .Nhưng cũng từ tiết đông này lại báo cho con biết một năm Phụng vụ mới, một mùa Vọng mới sắp về với Giáo hội .

                Mùa  Vọng ,mùa trông đợi.

                Mùa Vọng ,mùa của những tiếng vọng lên trời.

                “ Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa đấng chuộc tội…”

               Từ hàng ngàn năm trước,nhân lọai đã vang lên tiếng khẩn cầu mong chờ một vị cứu tinh đến giải thoát khỏi xiềng xích nô lệ.Và Ngài đã đến. Ngài đến, không phải là một minh chủ, một lãnh tụ trần gian mà là một vị Vua TÌNH YÊU cho hết mọi con người, Ngài làm chứng cho sự thật.Ai đứng  về sự thật thì nghe được tiếng Ngài .( Ga 18;37). Chính Ngài đã để lại một bản Di chúc vỏn vẹn bằng hai chữ “YÊU THƯƠNG”.

             Hơn 2000 năm đã qua đi, bản di chúc ấy vẫn mãi mang tính hiện thực.Tình yêu ấy sẽ được triển nở để chuẩn  bị cho Ngài đến . Khi ấy,mọi người trong mọi nước,mọi dân tộc sẽ qui tụ về làm một.

                                Lay Chúa,

            Trong lúc trông chờ ngày Chúa đến, xin cho mỗi người chúng con luôn tỉnh thức và sẵn sàng .Tỉnh thức để luôn nhận ra tình yêu Chúa thôi thúc: Sống với Chúa và sống với anh em. Sẵn sàng để khi nghe tiếng gọi của Tình yêu Chúa, con sẽ đáp trả .

              Xin cho con luôn có tinh thần hăm hở chờ ngày Chúa đến, và luôn sống trong thái độ tỉnh thức đợi chờ. Con xin thân thưa cùng Chúa :”Lạy Giêsu xin Ngài đến với con “. Amen .

                                                                              Chiều cuối tháng 11

                                                                                  ĐỖ CÔNG  MINH

                                                                        (Gx Lộc Hưng - Hạt Chí Hòa)

                                                                                                                            

Mục lục

 

TÀI LIỆU TUẦN THƯỜNG HUẤN LINH MỤC GIÁO PHẬN ĐÀLẠT 2006

TÌNH YÊU THEO THÔNG ĐIỆP “THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU”
CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊĐICTÔ XVI

Ông John Allen, Jr. của tờ National Reporter, một nhà báo và bình luận gia chuyên về Vatican được rất nhiều người biết đến, nhân dịp kỷ niệm một năm ngày Đức Giáo Hoàng Bênêđictô được chọn làm Giáo Hoàng, đã có nhận định sau đây : “Nếu một ai đó phải chọn ra một từ và chỉ một từ ngữ thôi để tóm tắt về giáo huấn của Đức Bênêđictô mãi cho đến nay, thì từ ngữ đó phải là “tình yêu.” Joseph Ratzinger xưa kia là người canh giữ cho đức tin, thì nay đã được biến hóa thành một vị Tông đồ của Tình yêu trung kiên nhất của thế giới”. Trong sáu bài giảng và những thông điệp của Ngài (bằng tiếng Ý) trong suốt Tuần Thánh tổng cộng khoảng 6.958 từ, Đức Bênêđictô đã sử dụng danh từ “tình yêu” 29 lần, cộng với động từ “yêu thương” 10 lần. Nghĩa là cứ mỗi 178 từ, thì có 1 từ có liên hệ đến “tình yêu,” nghĩa là hiếm khi một đoạn văn trôi qua mà Ngài không liên hệ trở về với chủ đề chính… Vào Lễ Vọng Phục Sinh trong ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, Đức Bênêđictô đã mô tả việc sống lại như là “một sự bùng nổ của tình yêu, vốn bẻ gãy sự liên kết tưởng như không thể nào phân rẽ được giữa sự chết và sống lại.” Có lẽ, điều đáng nói nhất, chính là việc Đức Bênêđictô kết thúc thông điệp của Ngài qua việc ban phép lành “Urbi et Orbi” vào ngày Chúa nhật Phục Sinh theo ngôn ngữ của tiếng La tinh là “Christus resurrexit, quia Deus caritas est” (Chúa Kitô sống lại, bởi vì Thiên Chúa chính là tình yêu !)”

Đức Bênêđictô quả là vị Giáo Hoàng của Tình yêu. Thông điệp đầu tiên của triều giáo hoàng của ngài mà mọi người trên thế giới chờ đợi, lại có tên “Thiên Chúa là tình yêu”. Ngài đã xác nhận mục tiêu ngài nhắm tới : “Trong thông điệp đầu tiên của tôi, tôi muốn nói về tình yêu mà Thiên Chúa đổ tràn đầy chúng ta và chúng ta phải thông truyền tình yêu đó cho những kẻ khác” (s.1).

Trong bài này, chúng ta cố gắng mô tả những nét chính của tình yêu dựa vào Thông điệp “Thiên Chúa là tình yêu” của Đức Bênêđictô XVI.

Chiều kích thiên linh của tình yêu

Đức Bênêđictô đã khởi đi từ một nhận xét : “Ngày nay, thuật ngữ “tình yêu” là những từ được sử dụng nhiều nhất và cũng bị lạm dụng nhiều nhất ; với thuật ngữ này, chúng ta có thể gán cho rất nhiều ý nghĩa khác nhau” (s.2). Chúng ta nói đến tình yêu tổ quốc, tình yêu nghề nghiệp, tình yêu bạn bè, yêu thích việc làm, tình yêu giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em và thân bằng quyến thuộc, tình yêu tha nhân và tình yêu đối với Thiên Chúa. Chúng ta thường sử dụng từ này khá dễ dàng và rộng rãi. Chẳng hạn một người có thể nói rằng anh yêu gia đình, yêu chiếc xe mới sắm, yêu cả “mắm tôm”. Báo chí có những tựa đề dựt gân : “yêu những kẻ khủng bố” hay “thích tự tử”. Rõ ràng từ “tình yêu” có ý nghĩa khác nhau đối với những người khác nhau. Từ nhận xét đó ngài nêu lên một vấn nạn : “Có phải mọi hình thức của tình yêu cuối cùng cũng kết hợp lại với nhau, và tình yêu – dù có khác biệt trong mọi hình thức – vẫn là một, hay là chúng ta sử dụng một từ để chỉ nhiều thực tại khác biệt nhau ?” (s.2)

Để trả lời câu hỏi, Đức Bênêđíctô đã phân tích quan niệm về tình yêu của các nền văn hoá, đặc biệt nền văn hoá hi lạp, và của các tôn giáo, và minh chứng rằng, trên căn bản, tình yêu là một thực tại duy nhất vì chiều kích thiên linh của nó.

Người Hy lạp gọi tình yêu là eros. Cũng tương tự như ở các nền văn hóa khác, người Hy Lạp trước tiên nhìn trong eros “một sự say đắm, lý trí bị một sự “điên dại thần bí” thống trị, bứt con người ra khỏi hiện thực hạn hẹp của mình và, trong tình trạng bị quyền lực thần linh này thống trị, sẽ đưa họ đến cảm nghiệm sự diễm phúc cao độ nhất.” (s.4) Thi sĩ Virgile trong tập Bucolica đã nói : “Omnia vincit Amor” (Tình yêu vượt thắng tất cả). Và ông còn thêm : “Et nos cedamus amori” (và cả chúng ta hãy khuất phục trước tình yêu). Tất cả các quyền lực khác giữa trời và đất đều trở thành thứ yếu. Còn trong các tôn giáo, các hình thức phụng thờ sự sung mãn, việc mãi dâm thánh, muốn diễn tả chiều kích thần linh của tình yêu. Eros được cử hành như một quyền lực thần linh, như một sự kết hợp với thần linh. Người ta nói tới những trạng thái “xuất thần”. Những từ “điên dại thần bí”, “quyền lực thần linh” ám chỉ đến chiều kích thần linh của tình yêu.

Vâng, tình yêu có liên hệ với Thiên linh : tình yêu hứa ban sự vô hạn, vĩnh cửu – sự vĩ đại và hoàn toàn khác với thực trạng hàng ngày của chúng ta.

“Thiên Chúa là tình yêu : ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4,16). Đức Bênêđictô đã dùng câu trích dẫn thư thánh Gioan này để mở đầu thông điệp và xác định nguồn gốc của tình yêu. Thánh Kinh cho chúng ta biết hình ảnh mới mẻ về Thiên Chúa. Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, Người là Đấng Sáng tạo trời đất và là Thiên Chúa của mọi người. Các thụ tạo rất thân thiết với Người, chỉ vì Người đã muốn chúng và đã sáng tạo chúng như thế. Vị Thiên Chúa ấy yêu thương con người. Thiên Chúa có một tên, đó là Tình yêu.

Niềm tin Thánh Kinh đó cho chúng ta xác quyết rằng : tình yêu mang tính thiên linh. “Chúng ta cũng có khả năng để thực hiện tình yêu vì chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa” (s.39).

Tình yêu mang tính “thiên linh”, vì từ Thiên Chúa mà đến và giúp chúng ta kết hợp với Thiên Chúa, giúp chúng ta trở thành một “chúng ta”. Tình yêu là “xuất thần”, nhưng xuất thần không theo nghĩa một thoáng đam mê, “xuất thần như là con đường vững chắc bước ra khỏi cái tôi đóng kín để tự do dâng hiến cái tôi của mình, để cho đi và qua đó để tìm được chính mình, vâng, để tìm được Thiên Chúa” (s.7). “Vâng, có một sự kết hiệp của con người với Thiên Chúa – đó là giấc mơ nguyên thủy của con người – nhưng sự kết hiệp này không phải là sự tan biến, chìm sâu vào một đại dương vô danh của thần tính, nhưng là sự hiệp nhất tạo nên tình yêu, trong đó cả hai – Thiên Chúa và con người – ở lại trong tình yêu và hoàn toàn trở thành một. Thánh Phaolô nói : “Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người” (1Cr 6,17) (s.10).

Chiều kích thiên linh cũng thể hiện rõ nét trong tình yêu nam nữ bởi vì ngay từ lúc sáng tạo eros hướng con người đến hôn nhân, đến sự ràng buộc, đến sự duy nhất và dứt khoát, vốn là những phẩm tính của tình yêu Thiên Chúa : “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt”

(St 2,24). Hôn nhân một vợ một chồng đáp ứng với hình ảnh Thiên Chúa độc thần. Hôn nhân căn cứ trên một tình yêu đơn nhất và dứt khoát, trở thành cách trình bày sự liên hệ giữa Thiên Chúa với dân Người : cách thức Thiên Chúa yêu trở thành tiêu chuẩn cho tình yêu của con người.” (s.11)

Tình yêu là eros và agape

Một vấn nạn khác đã được Đức Bênêđíctô nêu lên như khởi điểm của suy tư : Với những mệnh lệnh và những ngăn cấm của mình, phải chăng Giáo Hội đã làm cho niềm vui của tình yêu nam nữ, - tình yêu theo nghĩa eros - tình yêu đẩy ta đến với kẻ khác, và tìm được sự biến đổi qua sự kết hợp, - trở nên điều cay đắng hay không ? Hay nói như triết gia Friedrich Nietzsche, phải chăng Kitô giáo đã đầu độc eros ?

Đức Bênêđictô không phủ nhận rằng Kitô giáo trong quá khứ bị kết án là thù ghét thân xác, và nhìn nhận rằng ngày nay xu hướng này vẫn còn (x. s.5). Đã có những trường phái tu đức cho rằng những biểu lộ của trái tim đều bị coi như một mối nguy cơ, như một cái gì “nhân loại” và “tự nhiên”, do đó không hoàn hảo. Người ta cho mọi niềm vui phát xuất từ con tim sẽ làm mất đi công phúc của một tình yêu siêu nhiên, và vì thế sẽ tìm cách “vô hiệu hoá” tình cảm của mình và làm cho nó như bạc nhược đi. Theo những trường phái này, tình yêu siêu nhiên được quan niệm như một thực thể khác biệt một cách căn bản với tình yêu tự nhiên, và nó cũng không cần nhờ đến những phương tiện tự nhiên thông thường để diễn tả ra bên ngoài.

Thế nhưng cách tôn vinh thân xác mà chúng ta thấy ngày hôm nay cũng chỉ là dối trá vì trong thực chất nó hạ giá thân xác con người : “Eros (tình ái) bị hạ giá xuống thành sex (tình dục), trở thành hàng hóa, thành “vật phẩm” ; người ta có thể mua hay bán nó, thật vậy, chính con người cũng trở thành hàng hóa. Trong thực tế, điều này không phải là tiếng đồng ý cao cả của con người đối với thân xác mình” (s.5). Tuổi Trẻ Chủ nhật 16.04.2006 có bài viết đặt vấn đề “yêu ‘phần xác’ : sướng hay khổ ?” và ghi lại tâm sự của một bạn trẻ : “Bây giờ tôi như một gái bao” – cô bạn Thanh P. tâm sự trong nước mắt. P. “lún” ngay khi đậu đại học, thoát khỏi sự kềm cặp của gia đình. Những cuộc vui thâu đêm suốt sáng liên tục cho tới năm hai thì phải nghỉ ngang vì nợ môn. “Ban đầu nghĩ đơn giản là quan hệ với người yêu thôi. Sau “phóng lao phải theo lao”, đã một lần lên giường là có lần sau, càng ngày càng dễ vì còn gì để mất đâu. Sống chung thì chuyện ban trai chu cấp tiền, mua sắm, tặng quà là chuyện thường. Dần dà tôi thành gái bao chuyên nghiệp lúc nào cũng không hay”. P. cho biết cũng có vài lần quyết tâm làm lại từ đầu nhưng “danh tiếng” đồn xa quá nên P. dù có muốn “yêu một cách bình thường” trở lại cũng khó” (trang 8).

Niềm tin Kitô giáo luôn nhìn con người như là một hữu thể gồm cả hồn lẫn xác, nơi họ, tinh thần và vật chất nối kết chặt chẽ với nhau và cả hai cảm nghiệm được sự cao quí mới. “Con người thực sự là chính mình, khi hồn xác tìm được sự hiệp nhất nội tại ; thách đố của eros chỉ có thể vượt thắng, khi sự hiệp nhất này được thành tựu. Nếu con người chỉ muốn mình là tinh thần và hạ giá thân xác như gia sản động vật, thì hồn xác sẽ mất đi phẩm giá của mình. Và nếu như họ phủ nhận tinh thần và nhìn vật chất, thân thể của họ, mới là thực tại duy nhất, họ cũng lại đánh mất sự vĩ đại của mình” (s.5). Không phải chỉ có hồn hay chỉ có xác mới yêu. Con người, nhân vị, yêu như một thụ tạo duy nhất và đơn nhất, bao gồm cả hồn lẫn xác.

Theo ngôn ngữ thông thường eros là tình yêu hoàn toàn nhân linh. Nó thường được qui về tình yêu theo dục tính. Một tình yêu “đi xuống”, tình yêu “ham muốn”. Ý tưởng căn bản trong eros là có được điều gì đó cho bản thân. Ta có thể có tình cảm đích thực với người khác, thứ tình cảm được nhen nhúm lên nhờ sự hấp dẫn của người khác, nhờ sự phấn khích, hài lòng, thoả mãn mà ta tin rằng người khác sẽ ban cho ta. Eros có vẻ như là tình yêu đối với người khác, nhưng thực ra là tình yêu đối với bản thân. Nó thường nói : “Anh yêu em vì em làm cho anh hạnh phúc”. Nền tảng của nó là một vài đặc điểm nơi người khác mà làm cho ta hài lòng, chẳng hạn như vẻ đẹp, duyên dáng, nồng ấm, dễ thương hay tài năng. Loại tình yêu này trước tiên tìm kiếm điều ta có thể đạt được. Ta có thể cho đi một ít, nhưng mục tiêu thường là đạt được điều gì đổi lại cái ta trao ban. Nếu ta không đạt được cái ta muốn, nó có thể trở thành oán giận, cay đắng hay hận thù.

Agape là tình yêu của một con người không tìm vui thú cho chính mình, nhưng vui sướng khi trao ban. Nó không được cháy bùng lên do công trạng hay giá trị của đối tượng, nhưng phát sinh từ bản tính do Thiên Chúa trao ban. Agape vẫn tiếp tục yêu thương khi đối tượng không đáp trả, không tử tế, không dễ thương hay hoàn toàn không xứng đáng. Nó chỉ ao ước điều thiện cho người mình yêu. Mục đích cuộc đời người ấy là làm cho người yêu được hạnh phúc, dầu phải trả giá hay hi sinh. Không theo kiểu “bánh ú đi, bánh dì lại”. Nó không trao ban 50% và chờ đợi được đáp trả 50%. Nó trao ban 100% và không mong chờ đền đáp lại. “Ngược lại với tình yêu còn đang tìm hiểu và chưa xác định, từ này diễn tả cảm nghiệm tình yêu, trở thành một khám phá đích thực người khác, qua đó vượt thắng được cái tôi ích kỷ mà trước đó vẫn luôn chế ngự. Tình yêu bấy giờ trở thành sự chăm sóc người khác và cho người khác. Tình yêu không còn tìm cho chính bản thân mình – sự chìm đắm trong say mê hạnh phúc – nhưng chỉ muốn điều tốt lành cho người mình yêu : tình yêu trở thành sự từ bỏ, sẵn sàng trở thành lễ vật, vâng, tình yêu muốn như thế” (s.6)

Trong cuộc trao đổi triết học và thần học, những phân biệt này được đưa lên thành những đối kháng : tình yêu theo quan niệm Kitô giáo là agape là tình yêu bước xuống và dâng hiến ; tình yêu eros không thuộc về Kitô giáo, đặc biệt thuộc văn hóa Hy Lạp, ngược lại, là tình yêu vươn lên và ham muốn”. “Trong thực tế, erosagape – tình yêu vươn lên và hạ xuống – không bao giờ tách biệt nhau. Cả hai càng xuất hiện với sự hiệp nhất đúng đắn dưới mọi chiều kích khác biệt trong một thực tại tình yêu duy nhất, thì bản chất chân thật của tình yêu càng tỏ hiện rõ ràng. Cho dù khởi đầu eros còn mang tính chất khả giác và vươn lên – hấp dẫn vì hứa hẹn hạnh phúc – nhưng khi đến với người khác, con người sẽ không luôn hướng về mình, nhưng luôn ước muốn đem lại hạnh phúc của kẻ khác, luôn chăm sóc đến họ, tự hiến chính mình và muốn hiện diện cho họ. đó là lúc agape xen vào trong họ, nếu không như thế, con người sẽ bị hụt hẫng và đánh mất chính bản chất của mình. Ngược lại, con người không còn khả năng sống đơn thuần trong tình yêu ban tặng và đi xuống. Con người không thể cho mãi, họ cũng phải đón nhận. Ai muốn ban tặng tình yêu, thì chính họ cũng được lãnh nhận tình yêu” (s.7).

Thiên Chúa yêu thương con người “và người ta có thể xem tình yêu của Người là eros, nhưng cũng đồng thời là agape (s.9). Hai vị ngôn sứ Hôsê và Edêkien đã đặc biệt diễn tả đam mê của Thiên Chúa đối với dân của mình bằng những hình ảnh tình ái táo bạo : hình ảnh hôn ước và hôn nhân. Thiên Chúa yêu thương con người đến độ trở thành con người, chạy theo họ cho đến độ đi vào cõi chết. Eros của Thiên Chúa đối với con người cũng hoàn toàn là agape. Không phải chỉ vì eros này được ban tặng cách hoàn toàn nhưng không, không do một công trạng nào trước đó, mà còn vì đó là tình yêu tha thứ. Tình yêu này cao cả đến độ Thiên Chúa chống lại chính mình, tình yêu của Người chống lại công lý của Người.

Nhờ chiêm ngưỡng tình yêu của Thiên Chúa, Hội Thánh “không phủ nhận, cũng không “đầu độc” eros, nhưng là chữa lành để đạt được sự cao cả thực sự của nó.

Tình yêu không chỉ là cảm xúc
nhưng còn là sự hiểu biết và ý chí

Cũng trong bài báo Tuổi Trẻ Chủ nhật nêu trên, tác giả cho thấy một quan niệm về tình yêu của không ít các bạn trẻ thời nay : “Lấy chồng lấy vợ thì còn lâu nên bây giờ phải vui vẻ cái đã, thích thì chiều”… Một phong cách “yêu” trong quan hệ tình dục đang trở thành hiện tượng của không ít bạn trẻ”. Và tác giả kể tiếp : “Thanh L. đang học thạc sĩ ngành quản trị kinh doanh, thú nhận đã có quan hệ tình dục với bạn trai từ hơn một năm. Tuấn K. – bạn trai L – thẳng thắn : “Chúng tôi phân biệt rạch ròi, vui vẻ thì sống chung với nhau, còn thấy hết tình, hết cảm xúc về nhau nữa thì vui vẻ chia tay, tìm nguồn cảm hứng mới”.

Ngày nay nhiều bạn trẻ quan niệm tình yêu chỉ là cảm xúc. Họ chọn bạn đời trên nền tảng của eros. Họ có thể biết rất ít về nhau, nhưng họ nhấn mạnh rằng tình yêu sẽ giúp họ vượt qua được những khó khăn. Đáng tiếc thay, thường không phải như vậy, bởi vì đó không bao giờ là tình yêu đích thực. Cái bong bóng lãng mạn nổ tung khi con người “lý tưởng” xuất hiện xa vời với lý tưởng – nhẹ dạ, thô lỗ, không lãng mạn, lơ đễnh… Bởi vì không người bạn đời nào có được điều người ấy mong chờ nên chẳng mấy chốc anh đi đường anh, tôi đi đường tôi.

Tình yêu không phải chỉ là cảm xúc. Cảm xúc đến rồi đi. Cảm xúc có thể là một tia sáng khai mở diệu kỳ, nhưng tổng thể của tình yêu không phải như thế. Tình cảm chỉ là một nguồn phong phú và là một nguồn sức mạnh khi có được sự hướng dẫn bởi lý trí. Để đạt được mức độ trưởng thành của tình yêu, cần có sự tham gia mọi sức lực của con người, có nghĩa là con người trong tổng thể của mình. Tình yêu không chỉ là một tình cảm, nhưng còn có trí khôn và ý chí trong đó. Sự kết hợp của hiểu biết, ý chí và tình cảm trở thành một hành động trọn vẹn của tình yêu.

St. Exupery định nghĩa yêu nhau là nhìn về một hướng. Đức Bênêđictô trích dẫn câu nói thời danh của Sallust : “Idem velle atque idem nolle” (cùng muốn và cùng không muốn một điều như nhau). Người này trở nên giống người kia, điều này đưa đến một sự hợp nhất của ý chí và tư tưởng. Với lời Ngài, Thiên Chúa ngỏ lời với trí khôn chúng ta, với ý chí chúng ta và với tình cảm chúng ta sao cho chúng ta có thể học cách yêu mến Ngài “với hết con tim, với trọn cả linh hồn”. Và như thế, tình yêu không còn là một “giới luật”, áp đặt trên chúng ta từ bên ngoài, nhưng là một cảm nghiệm tình yêu được ban tặng từ bên trong, là lời đáp trả cho hồng ân “tình yêu”, một tình yêu mà tự bản chất phải được tiếp tục chia sẻ.

Bài thơ sau đây là một nỗ lực diễn tả tình yêu không chỉ là cảm xúc :

Phải chăng là khi tim bạn đập nhanh, lòng bạn tay bạn ướt đẫm mồ hôi, giọng nói bạn phải chạy theo mới có thể bắt kịp với nhịp đập trái tim nơi lồng ngực ?

Đó chưa phải là yêu… Chỉ là THÍCH.

Phải chăng là bạn không thể giữ cho mắt và tay bạn rời khỏi họ ?

Đó chưa phải là yêu… Chỉ là SỰ THÈM MUỐN.

Phải chăng là bạn luôn hãnh diện và háo hức muốn khoe họ với mọi người vì họ rất tuyệt ?

Đó chưa phải là yêu… Chỉ là MAY MẮN.

Phải chăng là bạn cần họ vì bạn biết họ đang có mặt bên cạnh bạn ?

Đó chưa phải là yêu… Bạn cảm thấy như thế, bởi vì bạn đang CÔ ĐƠN.

Phải chăng là bạn ở bên cạnh họ vì đó là điều họ muốn ?

Đó chưa phải là tình yêu… Chỉ là LÒNG TRUNG THÀNH.

Phải chăng là bạn ở bên họ vì vẻ bề ngoài của họ làm cho tim bạn đập nhanh hơn một nhịp ?

Đó chưa phải là yêu… Chỉ là SỰ MÊ MUỘI.

Thế nhưng…

Khi tim bạn vỡ vụn và đau nhói những lúc họ buồn...

Đó mới là YÊU.

Khi những người khác dù có thu hút bạn, nhưng bạn vẫn ở lại bên cạnh họ một cách không hối hận…

Đó mới là YÊU.

Bạn chấp nhận lỗi lầm của họ vì bạn biết đó là một phần tính cách của họ…

Đó mới là YÊU.

Khi bạn khóc vì những nỗi đau của họ, dù là nhiều lúc đối với những nỗi đau đó, họ còn cứng cỏi hơn cả bạn nữa…

Đó mới là YÊU.

Khi bạn cảm thấy như ánh mắt của họ nhìn thấu tim bạn, chạm vào tâm hồn bạn một cách sâu sắc đến đau lòng…

Đó mới là YÊU.

Phải chăng bạn bằng lòng dâng hiến trái tim, cuộc đời, sự sống cho họ chứ ?

Nếu có thì đó là YÊU.

Tình yêu có muôn vàn điều kỳ diệu và trong muôn vàn điều kỳ diệu có tình yêu !”

Hướng mắt nhìn “Đấng họ đã đâm thâu”

Con người được mời gọi hướng mắt nhìn “Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37 ; Dcr 12,10) bởi vì “cách thức Thiên Chúa yêu trở thành tiêu chuẩn cho tình yêu của con người” (s.11)

Tình yêu Eros-Agape luôn là hành động.

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người …có cuộc sống đời đời” (Ga 3,16). Tình yêu Eros-Agape đạt tới hình thức triệt để nhất trong Đức Giêsu Kitô, “Tình yêu trở thành xác thể của Thiên Chúa”. Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô chạy theo “con chiên bị thất lạc”, chạy theo nhân loại đau khổ và bị tiêu vong. Tình yêu Đức Giêsu đã tỏ lộ cụ thể khi Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,1-13). Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, Đấng đã tự trao ban chính mình để nâng con người lên và cứu độ họ, diễn tả tình yêu trong hình thức cao cả nhất.

Tình yêu Eros-Agape không bao giờ kết thúc, nó phải tăng trưởng luôn mãi.

Đức Giêsu trao ban cho hành động tận hiến này sự tồn tại lâu dài qua việc thiết lập Bí tích Thánh Thể ; dưới hình bánh và rượu, Ngài ban tặng chính mình cho chúng ta như một thứ manna mới liên kết chúng ta với Ngài. Khi tham dự vào Bí tích Thánh Thể, chúng ta được lôi kéo vào hành động tận hiến của Đức Giêsu. Đây không chỉ là một sự “kết hiệp” với Thiên Chúa, nhờ sự thông hiệp vào Mình và Máu Đức Kitô, nhưng còn có đặc tính “xã hội” vì “việc kết hiệp với Đức Kitô cũng đồng thời là một sự kết hiệp với những kẻ khác, với những người mà Chúa tặng ban mình cho họ”. Sự hiệp lễ kéo tôi ra khỏi bản thân để đến với Người và đồng thời đi vào sự hiệp nhất với tất cả mọi người Kitô hữu. Chúng ta trở thành “một thân thể”, một sự hiện hữu tan biến vào trong nhau.

“Tình yêu đó cốt tại chính điều này là, trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học hỏi cách nhìn người khác không phải chỉ bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô. Bạn của Người là bạn của tôi. Qua dáng vẻ bên ngoài, tôi nhìn thấy được nơi tha nhân sự chờ đợi một cử chỉ yêu thương, một cử chỉ quan tâm (…) Tôi nhìn với đôi mắt của Đức Kitô và có thể trao ban cho người khác nhiều hơn là những vật cần thiết bên ngoài : đó là cái nhìn của tình yêu mà họ cần” (s.18).

“Chúng ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta và chúng ta đã tin vào tình yêu đó” (Ga 4,16).

Chỉ nhờ cái nhìn về “Đấng họ đã đâm thâu”, người Kitô hữu có thể trở thành nguồn mạch, từ đó tuôn trào nước hằng sống (x. Ga 7,37-38).

Chỉ nhờ cái nhìn về “Đấng họ đã đâm thâu”, người Kitô hữu có khả năng làm cho thế giới đen tối được sáng trở lại.

 

Lm. Gioan TC. Nguyễn Phước, ofm.

Mục lục

 

MỖI NGƯỜI LÀ MỘT VƯỜN HOA

Có một vườn hoa ở Thụy Sĩ, rất đẹp, đa hương đa sắc, giữa vườn hoa là một toà nhà tráng lệ. Cách bài trí khu vườn, phải nói, rất công phu. Mỗi loài hoa được uốn nắn, cắt tỉa kỹ càng, và được trồng theo một quy trình rất chi tiết. Nhìn vườn hoa ai cũng cảm phục óc thẩm mỹ của chủ nhân nó.

Một hôm, có một du khách đi qua, vừa nhìn vườn hoa, ông đã phát mê. Vẽ đẹp của loài hoa kết hợp với tài khéo léo của nghệ nhân, tạo cho khu vườn một cảnh trí thật ngoạn mục.

Đang say sưa thưởng ngoạn, thì người làm vườn ở trong bước ra. Người làm vườn và vị khách gặp nhau, chào hỏi và trao đổi vui vẻ: Từ cách trồng hoa, chăm bón, cắt tỉa, đến cách phối hợp màu sắc, loài hoa… tất cả làm cho vị khách rất tâm đắc.

-    Xin lỗi, ông sống ở đây lâu chưa? Ông khách hỏi người làm vườn.

-    Hơn 20 năm rồi.

-    Ông chủ vườn có ở đây không?

-    Không, ông ta không ở đây. Hai mươi năm qua, ông ta chỉ ghé đây bốn lần, vì ông là một doanh nhân rất bận bịu.

-    Ông ta có thư từ gì cho ông không?

-    Trời đất, bận như thế thì ông ta có thì giờ đâu mà viết.

-    Vậy lương bổng của ông , ai trả?

-    Điều đó thì có quản gia lo liệu, hàng tháng tôi nhận được ngân phiếu ông ta gởi tới.

-    Khu vườn không có ai kiểm soát, mà sao ông chăm sóc chẳng khác gì của ông vậy?

-    Phải có lương tâm chứ ông! Được ông chủ tín nhiệm, giao phó thì mình phải tận tụy, bê trễ sao được. Nói thật với ông, tôi không muốn ông chủ về mà phật lòng. Hơn nữa mình bỏ công chăm sóc vườn hoa, thì cái lợi trước tiên là chính mình cũng được thưởng ngoạn, vậy đâu có thiệt thòi gì.

Người làm vườn nêu trên rất đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ, mà vì yêu ông chủ, không vì cặp mắt canh chừng của ông chủ, mà vì trách nhiệm phải chu toàn, ông coi việc của chủ như việc của mình, nên đã hết lòng vun trồng, chăm sóc vườn hoa.

Chúa cũng muốn chúng ta làm việc trong vườn nho Ngài, bằng cung cách như thế. Khi huấn dụ về tỉnh thức, Chúa đã dạy ta: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay... Nếu canh hai hoặc canh ba, ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ” (Lc 12.35-36,38).

Lời dạy của Chúa ta đã được nghe nhiều lần, nghe đi nghe lại nữa, nhưng thấm được vào óc ta, thì vẫn là điều cần phải suy xét. Chúa bảo ta phải cầm đèn cháy sáng, nhưng đèn không dầu thì lấy gì thắp sáng. Chúa dạy ta phải thắt lưng làm việc, nhưng ta chỉ ngủ vùi trong an phận, trong đam mê, thì khả năng đâu làm việc. Chúa yêu cầu ta phải chờ đợi Ngài, nhưng ta lại chỉ chờ đợi những gì không phải là Ngài, thì làm sao có thề gặp Ngài. Ơ vào hoàn cảnh trên, nếu bất ưng Ngài về, thì với ta, phúc lai hay hoạ tới?.

Linh hồn và thân xác ta là toà lâu đài Chúa trao. Vườn hoa chính là nhân đức Chúa đã gieo trồng, rồi giao cho ta chăm sóc. Lúc này, nếu nhìn lại, lâu đài đó liệu còn xứng với danh xưng của nó không, hay đã trở thành hoang phế, điêu tàn. Vườn hoa bây giờ, còn tươi tốt, khởi sắc, hay đã tàn úa bạc màu.
Trong cảnh huống này, nếu Chúa trở về, Ngài sẽ buồn hay vui? Hai trạng thái đó sẽ là phận số cho ta, khổ đau hay hạnh phúc.

Mỗi người chúng ta cần nhận ra những sai sót của mình, để cấp thời tu sửa. Thời gian của vũ trụ thì còn dài, nhưng thời gian của đời mình thì không thế đâu, nó thật ngắn ngủi. Ngày tận cùng chẳng biết lúc nào. Xin đưa ra một bằng chứng để làm rõ điều đó: Năm 1972, chỉ trong 4 ngày, từ 12 đến 16 tháng 6, người ta đã phải chứng kiến 4 vụ tai nạn máy bay khủng khiếp, một chiếc rớt ở Ấn Độ làm 100 người thiệt mạng, một chiếc rớt ở Phú Bổn làm 82 người thiệt mạng, chiếc thứ ba bay từ Luân Đôn đến Bruxelles, vừa cất cánh được 2 phút, bị trục trặc kỹ thuật đã đâm chào xuống phi đạo làm mạng 118 người, chiếc thứ tư  thuộc hãng hàng không Tân Gia Ba, cũng ngộ nạn trên đường đi Hồng Kông.

Bằng chứng trên là lời cảnh báo cho mỗi người chúng ta, phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, để dù Chúa đến lúc nào chúng ta vẫn là những người sẵn sàng cùng Ngài đi vào vườn hoa Thiên Quốc.

Lm. Hồng Nguyên

Mục lục

 

BẢN ĐỒ TÂN TRUNG ĐÔNG 

Cả hàng trăm năm dân Ả Rập không có được một chính quyền riêng của mình. Từ khi đế quốc Ottoman Thổ nhĩ Kỳ chinh phục phần đất của người Ả Rập vào đầu thế kỷ XVI thì họ không bao giờ có được độc lập. Cho đến thế chiến I, phần đông các nước trong thế giới Ả Rập đều nằm dưới quyền thống trị của đế quốc Ottoman; khi đế quốc Ottoman bắt đầu  đi đến suy tàn thì các nước kia lại trở thành thuộc địa của các cường quốc Âu Châu trong suốt thế kỷ XIX.

 Dân Ả Rập khao khát có một quốc gia nói tiếng Ả Rập được độc lập tự do. Đến thế kỷ XX thì họ phải được độc lập, nhưng không phải một nước Ả Rập thống nhất mà là hơn 20 nước. Điều thất vọng chán nản lớn  nhất đối với dân Ả Rập ngày nay là họ có tới 22 nước nhưng viễn tượng gần để cho các nước này thống nhất thì thật là mỏng manh.

 Vào đầu thế kỷ XX lúc còn là thần dân của ông hoàng Ottoman, thì thế giới Ả Rập có được hòa bình. Rất ít người nghĩ rằng miền đất này sẽ thay đổi  vào những thập niên tới. Nhưng tới năm 1900 thì Trung Đông thực sự -như đã nói trước kia- vẫn là một vùng “chính trị ao tù”.

Căn nguyên đưa đến việc thay đổi lại bản đồ toàn vùng Trung Đông là thế chiến I. Cuộc ám sát hoàng tử nước Áo Franz Ferdinand ở Sarajevo vào ngày 28 tháng 6 năm 1914 là một biến cố đã khích động chiến tranh. Chỉ trong vòng vài tuần lễ, tất cả các cường quốc Âu Châu đều nhảy vào vòng chiến. Nhiều vấn đề ở trong vùng Balkans đã bắt đầu nổi lên khi mà đế quốc Ottoman xuống dốc và tháo lui khỏi những vùng đất tại đó. Tinh thần quốc gia của các sắc dân đã bùng lên chống lại sự cai trị của ngoại bang, nhắm vào đế quốc Hung-Áo và Thổ nhĩ Kỳ.

 Khi chiến tranh khởi đầu, đế quốc Ottoman vẫn còn lưỡng lự chưa đứng về phía nào cả. Nhưng cuối cùng đã đứng về phía Đức và Áo chống lại  liên minh Anh-Pháp-Nga. Đó là một chọn lựa sai lầm, nguy hiểm và tai hại. Chỉ sau ít năm, đế quốc Ottoman đã xụp đổ, kết thúc sự thống trị thế giới Ả Rập của Thổ nhĩ Kỳ  sau nhiều thế kỷ.

 Cả thế kỷ sau, người ta vẫn không hiểu được tại sao việc ám sát một ông hoàng tử chẳng danh tiếng gì lại có thể dẫn đến những xáo trộn đổi thay như vậy, và bạo động cả thế kỷ nay vẫn chưa chấm dứt. Nhưng dư âm và hậu quả của tiếng súng ám sát đến nay vẫn còn.

 TINH THẦN QUỐC GIA VÀ KHÁT VỌNG DÂN TỘC.

Trước vụ ám sát, tinh thần dân tộc đã nổi lên khắp Âu Châu và Trung Đông. Vào thời đại Victoria, chủ nghĩa đế quốc thực dân vẫn còn thịnh hành.  Việc một quốc gia hùng mạnh có thể cai trị những quốc gia khác kém cỏi hơn là đương nhiên và có thể chấp nhận được ở một Âu Châu đang bị thống trị bởi những đế quốc đa sắc dân.

 Phần lớn những đế quốc này vẫn còn tương đối không đến nỗi dữ dằn, họ cho những sắc dân trong vùng ảnh hưởng của họ được tự do, kể cả tự do buôn bán và phát triển. Nhưng ước vọng có một quốc gia dân tộc đã được xây đắp một phần là do kết quả của giáo dục học đường đã khuyến khích họ nghiên cứu và học hỏi văn chương; nhờ đó tinh thần và  dân tộc tính của họ mới được kích thích và bùng dậy.

 Ý thức dân tộc chỗi dậy không phải chỉ có ở Âu Châu mà tại Trung Đông mọi sắc dân đều khát khao có một quốc gia riêng của mình.

 Khuynh hướng đòi độc lập của các sắc dân đã giữ một vai trò rất lớn ở thế kỷ XX hầu ứng nghiệm lời Chúa Kitô nói về  thời Cánh Chung trong Tin Mừng thánh Mathew đoạn 24. Khi các môn đệ hỏi Người làm sao để biết đựơc dấu hiệu Người trở lại và ngày tận cùng, thì Ngài đã nói với các ông là sự gia tăng áp lực đòi hỏi của các dân tộc. Ngài nói: “Dân tộc này sẽ nổi dậy chống dân tộc kia, nước này sẽ chống nước nọ…..” (Mt,24, 7).

 Cùng với sự phát triển các thể chế dân chủ trong một số quốc gia, các sắc dân đã có đại diện ở các thủ đô để có thể bày tỏ ước muốn tự trị của mình.  Dù vậy, nhiều nước vẫn muốn được độc lập hoàn toàn. Sự căng thẳng này cũng là một cớ đưa tới thế chiến I và những dàn xếp thay đổi ở Hội Nghị Hòa Bình Paris sau đó.

 Hội nghị Paris đưa ra hiệp ước Versailles 1919 dẫn tới việc thành lập những quốc gia mới ở Âu Châu và Trung Đông. Những đế quốc cũ bị dẹp bỏ và thay thế bằng những quốc gia mới, nhỏ hơn, đã làm cho tình trạng bang giao quốc tế sau này trở nên phức tạp. Câu nói “Chiến tranh chấm dứt chiến tranh” đã được Archibald Wavell, một sĩ quan trong quân đội hoàng gia Anh thay thế bằng câu: “Hòa bình chấm dứt hòa bình”.

 Ả-RẬP ÂM MƯU KHỞI NGHĨA

 Trước thềm thế chiến I, Anh quốc đã là một lực lượng lớn ở Trung Đông. Anh quốc nhảy vào vòng chiến tiên khởi là để bảo vệ quyền lợi của mình ở Ấn Độ, một tài sản đáng giá nhất của đế quốc Anh. Benjamin Disrael, thủ tướng Anh gốc Do Thái đã dàn xếp để tài trợ việc thiết lập kinh đào Suez, huyết mạch sinh tử của đế quốc.

 Anh quốc đã kiểm soát Ai Cập, nơi có kinh đào Suez, nhưng không biến nó thành một thuộc địa. Họ cũng cai trị cả Aden, khúc đuôi ở phía Nam Arabia đồng thời nắm giữ những vị trí chiến lược quanh vùng vịnh Ba Tư.

 Khi thế chiến I bùng nổ, Anh quốc đã ở vị thế ngon lành có thể bảo trợ cho cuộc nổi dậy của Ả Rập chống lại Thổ Nhĩ Kỳ, đồng minh của Đức, kẻ thù của Anh quốc. Cuộc khởi nghĩa của Ả Rập bắt đầu nổi lên ở Hejaz, vùng duyên hải của Arabia dọc theo Biển Đỏ, trong đó có hai địa danh Mecca và Medina vào ngày 10 tháng 6 năm 1916, hai năm sau khi thế chiến I bắt đầu. Cuộc khởi nghĩa dẫn đầu bởi Hussein ibn Ali (1852-1931) thuộc hàng chắt chít của Muhammad ở Mecca và là thủ lãnh chi họ Hashemite lúc bấy giờ. Hussein chính là tổ tiên của quốc vương Jordan hiện giờ.

 Nực cười thay, trong cuộc khởi nghĩa này dân Ả Rập lại đứng về phía Anh Kitô giáo để chống lại Thổ nhĩ Kỳ Hồi giáo. Nhưng đối với họ, ước vọng một quốc gia Ả Rập độc lập là tối thượng. Hai người con trai của Hussein dẫn đầu binh lực của Ả Rập được tài trợ  bởi Anh quốc và được giúp đỡ cố vấn ngoài chiến trận bởi một  quân nhân danh tiếng của quân đội hoàng gia  Anh là T.E. Lawrence  (Lawrence of Arabia). Dân Ả Rập hiểu rằng thắng trận có nghĩa là “một quốc gia Ả Rập độc lập”

Quan niệm như vậy đã được biểu hiện qua những trao đổi  văn thư giữa vị toàn quyền Anh ở Ai Cập là Sir Henry McMahon và Sharif Hussein trong khoảng thời gian từ 14 tháng 7 năm 1915 đến 30 tháng 3 năm 1916. Trong một lố 10 bức mật thư  trao đổi giữa 2 người, Sharif Hussein đề nghị giúp Anh quốc bằng cách nổi loạn chống lại Thổ Nhĩ Kỳ để đổi lấy lời hứa cho dân Ả Rập độc lập sau khi thắng trận. Anh quốc đồng ý như vậy với ngoại lệ một vài vùng kể cả những vùng hiện đang ở dưới sự kiểm soát của Anh quốc.

 Cuộc nổi dậy đã thành công. Vào tháng 10 năm 1917, quân đội đồng minh dưới quyền của tướng Anh Allenby đã xâm lăng Palestine, chiếm Jerusalem vào ngày 9 tháng 12 . Đây là lần đầu tiên kể từ khi đoàn quân Thánh Giá  thua trận vào năm 1244, thị trấn này mới lại trở về tay người Kitô giáo để rồi giờ đây lại bắt đầu một cuộc xung đột  dai dẳng cả hàng thế kỷ nhắm vào Thị Trấn Hòa Bình này sau 400 năm hòa bình dưới thời đế quốc Ottoman.

 Vào những tháng đầu cùng năm, Anh quốc chiếm Baghdad. Năm sau Damascus cũng thất thủ. Ba ngày sau khi rơi vào tay quân khởi nghĩa Ả Rập, tướng Allenby và hoàng tử Faisal, con trai Sharif Hussein đi vào thị trấn. Faisal dẫn 1,000 kỵ binh, đã được dân chúng hoan hô nồng nhiệt như được xả hơi thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Ottoman, vui mừng phấn khởi về  tương lai một vương quốc Ả Rập độc lập và tự do.

 Theo sau thất bại của trục, ba đế quốc Đức, Áo và Ottoman cũng xụp đổ. Đế quốc Nga –đồng minh của Anh, Pháp và của Hoa Kỳ sau này- lại rơi vào tay cộng sản.

 Thế giới sẽ không bao giờ trở lại như cũ nữa. Thế chiến I kết thúc trật tự cũ của thế giới.

 NHỮNG LỜI HỨA CHÕI NHAU ĐÃ LÀ CỚ CHO NHỮNG XUNG ĐỘT

 Lo lắng mong được thắng trận, Anh quốc đã đưa ra những lời hứa chõi nhau với Ả Rập, Do Thái và cả đồng minh của mình là Pháp và Nga.

 Vào tháng 11 năm 1917, Nga rơi vào tay cách mạng Bolsheviks. Quân cách mạng tự coi mình như là chủ nhân của những mật ước cùng với chế độ Nga hoàng. Họ công bố cho dân chúng mật ước Sykes-Picot (tên của hai nhà điều đình Anh là Sir Mark Sykes và Pháp là Georges Picot) ký vào tháng 5 năm 1916. Mật ước này cho thấy Anh và Pháp có kế hoạch cắt xén đế quốc Ottoman và chia nhau, không cho Ả Rập một phần đất nào cả.

 Cùng tháng đó, chỉ 5 ngày trước khi cách mạng Bolsheviks lên nắm quyền ở Nga Sô, Anh quốc cho ra tuyên cáo Balfour (tên vị ngoại trưởng Anh Arthur James Balfour). Theo tuyên cáo này, Anh quốc hứa yểm trợ cho Do Thái có một quê hương ở Palestine. Lời hứa này đã là cớ cho biết bao nhiêu vấn đề khó có thể giải quyết được đối với người Anh trong những năm về sau, đồng thời cũng là cớ cho những xung đột rất trầm trọng và to lớn hơn nữa đối với cả Do Thái lẫn  Ả Rập.

 Người Ả Rập đã cùng với người Anh chiến đấu chống lại Thổ Nhĩ Kỳ, góp phần vào sự thắng trận của liên minh. Để bù lại, họ kỳ vọng sẽ được toàn quyền trên tất cả những phần đất Ả Rập, khác với những phần đất đang là thuộc địa của Âu Châu như Ai Cập, Aden và Algeria. Chắc chắn họ kỳ vọng và muốn rằng Arabia, Iraq, Syria và Palestine phải được kiểm soát trực tiếp và duy nhất bởi người Ả Rập.

 Palestine  (tên mới của phần đất của Israel và Judah nói trong cựu ước, tức là đất thánh) đã do Hồi Giáo kiểm soát từ thế kỷ VII, ngoại trừ một thời gian ngắn trong thời Thánh Chiến ở thế kỷ XI. Người Do Thái có thể sinh sống ở Palestine, nhưng nếu toan tính thiết lập một quê hương ở đó thì sẽ bị chống đối.

 Hiệp định Versailles được ký tại hội nghị Hòa Bình Paris, đại diện của Ả Rập (và cả T.E. Lawrence) đã bị phản bội.  Phe đồng minh thắng trận đã chia nhau đế quốc Ottoman. Hội quốc liên chính thức cho Anh quốc được cai quản Palestine, Transjordan và Iraq; Pháp cũng được phần như vậy tại Syria và Lebanon. Cả Do Thái lẫn Ả Rập chẳng được gì hết ngoài lời hứa, không hơn không kém.

 ANH QUỐC THỪA HƯỞNG MỘT VẤN NẠN KHÔNG BAO GIỜ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC

 

Palestine là một vấn nạn to lớn nhất. Đã có lúc Anh quốc cho dân Do Thái hồi hương không giới hạn. Nhưng việc này đã khiến dân Ả Rập kêu trời! Sợ dân Do Thái sẽ lấn chiếm, Ả Rập yêu cầu Anh quốc phải ngừng việc hồi hương người Do Thái. Anh quốc đã làm việc này. Nhưng trước thềm thế chiến II, 6 triệu người Do Thái bị Đức quốc Xã cho vào lò sát sinh. Con đường trốn thoát về Palestine đã bị cắt đứt đúng vào lúc dân Do Thái cần con đường sinh lộ này nhất.

 Trong vòng ba thập niên người Anh cai trị Palestine, bản đồ chính trị trong vùng vẫn cứ tiếp tục thay đổi. Ai Cập lấy lại quyền năm 1922; Iraq năm 1932, mặc dù Anh quốc vẫn còn ảnh hưởng đáng kể trên cả hai quốc gia này. Lebanon lấy lại độc lập từ tay người Pháp năm 1941. Syria thì 5 năm sau đó vào năm 1946. Cũng năm đó Anh quốc thiết lập một quốc gia Palestine Ả Rập độc lập, đồng thời trả độc lập cho Transjordan (Jordan).

 Sau thế chiến II vào năm 1945, Anh quốc quá mệt mỏi đã rút ra khỏi đế quốc. Pakistan và Ấn Độ được độc lập năm 1947. Gần một năm sau đó thì Anh cũng hoàn toàn rút ra khỏi Palestine.

 Anh quốc không còn có thể giữ an ninh được cho Do Thái và Ả Rập. Quân khủng bố Do Thái đã cho nổ tung khách sạn King David, nơi đặt bộ tham mưu quân đội hoàng gia Anh tại Jerusalem, làm thiệt hại gần 100 quân lính. Vào lúc đó, cũng giống như ở Ấn Độ, đoàn quân viễn chinh không còn được dư luận quốc nội ủng hộ  nữa. Lý do là vì quá vô lý khi đi ủng hộ một đoàn quân cứ phải hy sinh tính mạng để giữ an ninh cho kẻ thù. Anh quốc đã báo cho Liên Hiệp Quốc (một tổ chức thay thế Hội quốc Liên) biết trước sáu tháng trước khi họ rút ra khỏi Palestine.

 QUỐC GIA ISRAEL KHAI SINH

 Liên Hiệp Quốc (LHQ) đã bỏ phiếu để quyết định phân chia Palestine cho Do Thái và Ả Rập, còn Jerusalem thì thuộc quốc tế quản trị. Israel chấp nhận kế hoạch này, nhưng Ả Rập không đồng ý. Khi Anh quốc rút ra khỏi Palestine thì lãnh tụ Do Thái tuyên bố khai sinh quốc gia Israel độc lập của người Do Thái vào chiều ngày 14-15 tháng 5 năm 1948. Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ sau, binh lực của 5 nước Ả Rập chung quanh liền tấn công  Israel với mục đích tiêu giệt quốc gia non trẻ này mới chỉ có dân số chừng ½ triệu người.

 Chiến tranh kéo dài mãi cho đến đầu năm sau thì Israel lại chiếm thêm một phần đất nữa cộng với phần đất mà LHQ đã chia cho.  Đa số dân Ả Rập ở trong phần đất Do Thái chiếm đóng này liền rời bỏ nhà cửa mình di cư về West Bank, Gaza, Lebanon, Syria, Jordan và Ai Cập. Những ngừơi Ả Rập ở lại phần đất bị Do Thái chiếm đóng thì được hưởng quyền công dân của Israel. Nực cười là ngày nay những người này lại được hưởng nhiều quyền tự do cá nhân hơn những đồng bào Ả Rập của họ hiện sinh sống tại những quốc gia được cai trị bởi người Ả Rập.

 Còn nhiều chiến tranh nữa sẽ xẩy ra sau này. Năm 1956, Israel đứng về phía Anh và Pháp chống lại Ai Cập lấy lại kinh đào Suez đã bị chính phủ cách mạng Ai Cập nắm giữ. Hoa Kỳ sau đó đã phải áp lực buộc 3 quốc gia này rút ra khỏi kinh đào. Đây lại là cơ hội thúc đẩy tinh thần quốc gia của người Ả Rập bùng mạnh hơn nữa. Trong vòng vài năm thì Pháp mất Algeria không còn ảnh hưởng gì trên phần đất này nữa. Anh quốc cũng mất hầu hết đế quốc của mình trong thời gian 10 năm có cuộc khủng khoảng kinh đào Suez, và cũng rút lui hoàn toàn khỏi vùng vào năm 1971.

 Thay thế Anh và Pháp, Hoa Kỳ và Sô Viết nhảy vào. Hai đối thủ này, trong thời gian chiến tranh lạnh, đã dùng những quốc gia gọi là “ủy nhiệm” để ngăn cản, phá hoại những quyền lợi và tham vọng của nhau.

 SỰ XỤP ĐỔ CỦA NHỮNG ĐẾ QUỐC CŨ.

 Nhưng tinh thần quốc gia của người Ả Rập không ngừng trỗi dậy ở đó. Khát vọng một Ả Rập thống nhất vẫn còn trong tâm trí của tất cả mọi người Ả Rập.

Và dân Ả Rập không còn đơn độc phá vỡ luật lệ thuộc địa để thoát ra khỏi gông cùm nô lệ. Sau thế chiến II, nhiều tân quốc gia trên khắp thế giới cũng được tái sinh cùng với sự xụp đổ của những đế quốc Âu Châu cũng như thế chiến I đã kéo theo sự xụp đổ của những đế quốc đã một thời thống trị phần lớn Âu Châu. Bây giờ tất cả mọi đế quốc có thuộc địa trên thế giới cũng theo nhau xụp đổ. Từ trước đến giờ, bản đồ thế giới chưa bao giờ lại thay đổi một cách thảm hại như vậy.

 Để hiểu rõ vấn đề, chúng ta thấy ngay sau khi hiệp định Versailles 1919 ký thì không một quốc gia Ả Rập nào có độc lập. Ngoài Persia (Iran) và Afghanistan ra cũng không có một nước Hồi giáo nào trên khắp thế giới  được độc lập.

Khi đế quốc Ottoman bị lật đổ thì chính thể Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ được thiết lập.  Dân chúng phần lớn vẫn theo đạo Hồi nhưng chính phủ chuyển hướng theo Tây phương, không còn là chính phủ Hồi giáo nữa. Mặc dù Ai Cập đã được độc lập từ năm 1922, nhưng các vua không phải là Ả Rập và Anh quốc vẫn còn cầm chịch bên trong hậu trường. Tất cả những vùng thuộc Hồi Giáo trên khắp thế giới vẫn dưới quyền kiểm soát của Âu Châu. Oái uăm  nữa là quyền lực mạnh nhất của Hồi Giáo lúc bấy giờ lại ở trong tay Anh quốc với tư cách là nước đang cai trị bán lục địa Ấn Độ (hiện nay gồm cả Pakistan, Bangladesh và Sri Lanka).

 Ngày nay trên khắp thế giới có tất cả 57 quốc gia Hồi Giáo, phần lớn do người Hồi Giáo nắm quyền. Trong số đó có 22 nước Ả Rập lại nắm giữ phần lớn tài nguyên thế giới là dầu hỏa, huyết mạch của nền kinh tế thế giới. Có ai  ngờ rằng Trung Đông và Hồi giáo lại bất thần trở thành vấn đề quốc tế hàng đầu ?

 

PHONG TRÀO QUỐC GIA Ả-RẬP TRỖI DẬY

 

Một trong những phát triển đáng kể ở trong vùng sau khi hiệp định Versailles kết thúc thế chiến I là sự trỗi dậy của phong trào quốc gia Ả Rập. Thất vọng vì sự phản bội của các cường quốc Âu Châu, dân Iraq nổi loạn chống lại Anh quốc. Anh quốc sau này hối hận vì đã dính vào Iraq, tốn kém quá nhiều mà lấy lại chẳng được bao nhiêu. Sau hơn bốn năm trời can dự vào thế chiến I, kinh tế Anh quốc đã kiệt quệ, bây giờ lại tự mình chuốc lấy gánh nặng phải giữ an ninh trong vùng của kẻ thù.

 Thiết lập một quê hương độc lập cho người Do Thái đã là một công trình đáng kể rồi. Rõ ràng là nếu quốc gia Israel không được thành lập thì lịch sử của Trung Đông chắc chắn sẽ khác bây giờ. Đối với dân Ả Rập, họ khó có thể chấp nhận sự thống trị của Âu Châu trên những phần đất của họ để rồi họ phải hứng chịu là thuộc địa của dân Tây phương “ngoại đạo” vẫn giữ ý định sống vĩnh viễn trên đất của họ.

 Khởi đầu dân Ả Rập không trách cứ Tây Phương vì chuyện quốc gia Israel. Nhưng trong những ngày đầu lập quốc của Do Thái, các nước cộng sản  Đông Âu đã cung cấp khí giới cho Do Thái để chống lại Ả Rập. Vì nhiều người Do Thái sống trong những chung cư ở  những nông trại tập thể gọi là  kibbutzim giống như kiểu của cộng sản nên những nước thuộc Sô Viết nghĩ rằng Israel có thể là đồng chí làm bàn đạp cho họ ở Trung Đông, một vùng vẫn nằm dưới sự thống trị của những đế quốc Âu Châu vào thời đó.

 Sau này, những người Do Thái gốc Hoa Kỳ lại là cơ bản để thiết lập một thể chế dân chủ kiểu Tây Phương ở trong vùng với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ. Thế là Sô Viết đã tìm một nước khác có thể làm bàn đạp cho mình ở trong vùng.

 Thất vọng vì bị thua trận năm 1948, bực bội vì sự tham nhũng của chế độ và vua Farouk theo Tây phương,  quân đội Ai Cập đứng lên lật đổ chế độ quân chủ vào năm 1952, thiết lập chính thể cộng hòa cách mạng đã tạo thành chuỗi dây truyền nơi những quốc gia khác ở trong vùng. Giấc mơ một Ả Rập thống nhất xem chừng có thể thực hiện được !

 Tinh thần cấp tiến mới mẻ của Gamal Abdel Nasser đã khuyến khích dân Ai Cập và Ả Rập liệng bỏ ảnh hưởng của Tây phương. Nasser quốc hữu hóa kinh đào Suez đang do Anh và Pháp làm chủ đã khiến Anh-Pháp-Israel hợp lực để lấy lại kinh đào và lật đổ chính phủ Ả Rập cấp tiến đang đe dọa quyền lợi của Tây Phương và Do Thái. Nhưng chính quyền Eisenhower của Mỹ lúc đó, vì sợ ảnh hưởng của Sô Viết ở trong vùng tăng lên nên đã áp lực ba nước phải triệt thoái khỏi kinh đào. Dù vậy Sô Viết vẫn nhảy vào nhập cuộc như thường, yểm trợ giúp đỡ Ai Cập và những nước Ả Rập chống lại Israel suốt 25 năm sau. Hoa Thịnh Đống và Mạc Tư Khoa đã chính thức thực sự can thiệp vào Trung Đông từ đó.

 Sau Ai Cập đến lượt Iraq lật đổ chế độ quân chủ thân Tây Phương. Nên nhớ là các vua chúa cầm quyền ở các nước Ả Rập thường theo học giáo dục Tây phương, phần lớn là ở Anh và Hoa Kỳ nên họ có khuynh hướng thân Tây phương. Quan trọng hơn nữa, họ cũng đã Tây phương hóa rồi nên lại càng làm cho các thần dân tín đồ tôn giáo của họ bực bội hơn.

 Năm 1932 Anh quốc triệt thoái khỏi Iraq sau khi đã thiết lập một chế độ quân chủ lập hiến có quốc hội theo kiểu Anh quốc. Nhưng thể chế này cũng chẳng tồn tại được bao lâu sau khi Anh quốc ra đi. Quân đội đã lên nắm chính quyền vào năm 1958 bằng một cuộc đảo chính đổ máu, giết chết vua Faisal chi họ Hashemite và nhiều người trong hoàng tộc. Chính phủ lập hiến đã không thành công trong thế giới Ả Rập và cũng chẳng mấy kết quả nơi Hồi giáo.

 Cuối cùng Iraq nằm trong tay nhà độc tài Saddam Hussein. Tương tự như vậy, vua Idris của Libya cũng bị lật đổ vào năm 1969 và thay thế bởi một lãnh tụ cấp tiến chống Tây phương, đại tá Muammar Gadhafi. Khi chế độ quân chủ ra đi thì người cộng hòa tiếp theo lại trở thành độc tài. Syria đã trở thành triều đại cộng hòa với cha truyền con nối. Điều này lại giống y hệt các quốc gia Ả Rập khác. Chắc chắn ở Iraq họ cũng có ý định như vậy trước khi xẩy ra chiến tranh vùng Vịnh năm 2003 dẫn đến việc lật đổ chế độ Saddam Hussein.

 Năm 1958, Ai Cập, Syria, Yemen và Liên Hiệp các quốc gia Ả Rập đã thành lập một nước Liên Hiệp Cộng Hòa Ả Rập với ý định thống nhất các nước Ả Rập, nhưng cũng không tồn tại được lâu. Nó chỉ kéo dài đến năm 1961 thôi. Nhưng khát vọng thống nhất của họ vẫn còn.

 Lý do bên trong của khát vọng thống nhất đó là muốn có một binh lực hùng mạnh có thể đối đầu chiến thắng được Israel. Do Thái  đã chiến thắng quân sự trong trận chiến 6 ngày năm 1967. Bị khiêu khích bởi binh lực của Ả Rập, Israel đã thắng trong trận chiến thần tốc, chiếm được West bank (Jordan lấy  trong trận 1948), Golan Heights (hồi trước thuộc Syria) và Gaza Strip (nắm giữ bởi Ai Cập thời chiến tranh 1948). Thêm vào đó, đây là lần đầu tiên kể từ thời lưu vong,  Do Thái đã kiểm soát được Jerusalem.

 Tiếp theo là một chiến thắng nữa trong trận đánh dài hơn vào tháng 10 năm 1973, gọi là trận Yom Kippur xẩy ra khi các quốc gia Ả Rập tấn công Do Thái vào ngày Atonement, ngày lễ cực Thánh trong năm của người Do Thái. Trong thời gian những cuộc chiến đó xẩy ra, quân khủng bố Palestine bắt đầu hoạt động. Sau trận chiến 1973, lần đầu tiên thế giới Ả Rập dùng dầu hỏa làm khí giới để áp lực Tây phương, tăng giá dầu lên gấp 4 lần, làm lung lay nền kinh tế thế giới.

 Tất cả những thất bại đó lại càng thôi thúc dân Ả Rập thống nhất lại với nhau. Nhưng sự thống nhất đó luôn luôn vượt khỏi tầm tay của họ. Ngày nay, phần đông các quốc gia trong vùng hoặc là nằm dưới chế độ  quân chủ bảo thủ Hồi giáo hoặc là quốc gia cấp tiến tàn bạo.  Một cách nào đó, những chính thể như vậy lại đối nghịch nhau, nhưng cả hai đều dùng bàn tay sắt đối với dân chúng của mình.

 Tinh thần quốc gia cực đoan cộng thêm sự nung nấu lòng phẫn uất đối với Tây phương, sự hận thù đối với dân Do Thái, chán nản thất vọng đối với chính quyền và những nhà lãnh đạo của mình, đã làm cho một sức mạnh cũ  trỗi dậy đưa đến khủng bố và gây nên sự lo lắng trong lòng thế giới Tây phương. Hồi Giáo cơ bản.

 Pace Island, Florida Nov. 10 năm 2006

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Mục lục

 

 

Lễ tế ngu trong tang lễ người Việt.

 Từ ngữ:

Từ “ngu” trong lễ tế ngu khác với cách hiểu bình dân Ngu là dốt, từ ngữ này gốc Hán, theo Đại nam Quấc âm tự vị của tác giả Paulus Của giải thích: “Họ Hữu Ngu dòng dõi vua Thuấn; tên một nước; lo, nghĩ tới; lễ tế vong hồn người mới chôn. Tế ngu là lễ tế lúc mới đi chôn mà trở về nhà, phải lễ ba lần cho nên gọi là sơ ngu, tái ngu và tam ngu, ấy cũng là tiệc đãi hàng xóm, cũng gọi là lễ an sàng”[1][1].          

Tác giả Lê văn Siêu trong phần tang lễ cũng nhằc tới: “lúc đã chôn xong và đắp mô xong, tang chủ phải có bài văn tế thành phần. tế xong rước về, tang chủ phải đi giật lùi đàng trước linh xa rồi con cháu theo sau. lu1c về đến nhà thì lại làm lễ phản khốc, như để mời linh hồn an toạ vào bàn thờ. phải làm lễ tế ngu ba tuần để cầu an hồn phách”[2][2].

Lễ Ký, kinh điển về việc lễ, giải thích: “Ngu tức là Yên, Ngu lễ là lễ tế cho tâm hồn được yên vị. sau lễ Ngu tế, không được khóc lóc nữa, lễ chế gọi là “tốt khốc” ”[3][3].

Chắc chắn còn rất nhiều sách nói về Lễ tế ngu nữa, nhưng có lẽ vài  điều trưng dẫn ở đây cũng đủ minh hoạ ý nghĩa của từ “Ngu” trong lễ tế.

Thời gian tính:

Thời gian tính dường như không thống nhất, có nơi tính bắt đầu từ khi mất, có nơi người ta tính thời gian sau khi chôn. Theo “thọ mai gia lễ” là gia lễ của nước Việt, có dựa theo Chu Công gia lễ của thời xưa Trung Quốc nhưng không rập khuôn theo họ. Tác giả của “Thọ mai gia lễ” là Hồ sỹ Tân (1690 – 1760) hiệu Thọ Mai, người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, đậu tiến sỹ năm 1721 (Năm thứ hai triều Bảo Thái) làm quan đến Hàn Lâm thị chế. Trong “thọ mai gia lễ có tr1ich dẫn một phần của Thượng Thư gia lễ. Hồ Thượng Thư tức là Hồ sỹ Dương (1621 – 1681) cũng người làng Hoàn Hậu, đậu tiến sỹ năm 1652 tức là năm thứ tư triều Khánh Đức, Thượng thư bộ hình, tước Duệ Quận Công; thì khi chôn xong, rước linh vị về nhà tế sơ ngu, làm sơ ngu xong gặp nhày nhu (Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý) làm lễ tái ngu, gặp ngày cương (Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm) làm lễ tam ngu. Trong sách Phan Kế Bính cũng diễn giải tương tự.

Sau này người ta giản lược, kiêm cả ba lễ, chỉ làm lễ tam ngu, ví thế gọi là lễ ba ngày. vậy thời gian tính sau ba ngày từ khi chôn, theo tục lệ người ta gọi ngày ấy cũng là ngày mở cửa mả. ngày mở cửa mả, con cháu ra thăm mộ để dọn dẹp, sửa sang mộ phần, đắp cỏ, khơi rãnh thoát nước…

Lý do làm lễ tế ngu:

Gợi nhớ Thánh ca Isaia, kinh sáng Phụng vụ giờ kinh, ngày thứ ba, tuần thứ 2[4][4].

Người đang hoạt động bỗng nhiên nằm yên không hoạt động. “Lạy Chúa, con như người thợ dệt. Đang mải dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa, cắt đứt ngay hàng chỉ”.

Đang nhìn thấy người thân bỗng nhiên phải liệm vào trong áo quan để không thấy nữa. “nhà tôi ở đã bị giật tung, và đem đi như lều mục tử”.

Từ nay phải chia tay với người thân, không cón nhìn thấy nhau nữa, âm dương cách trở. “Tôi có nói: chẳng còn được thấy Chúa, ở trên cõi dương gian, hết nhìn thấy con người đang sống nơi trần thế”

Phẩm phục trong lễ tế ngu.

Tang phục và tang kỳ có nhiều điều phức tạp nên bỏ qua trong bài này, ở đây chỉ nói tới tang phục mặc trong lễ tế ngu: “tang phục may bằng sợi dây đay như lúc đầu mặc là mỏng nhất, tang phục sau lễ tế được thay đổi dần dần, càng thay càng dầy, khi cởi ra cũng dễ dàng. Ý là muốn giúp mọi người từng bước, từng bước học cách thu lại và che giấu. Mục đích cuối cùng là hoàn toàn hồi phục”[5][5].

Văn tế:

“Than ôi! Trên toà Nam cực (khóc mẹ đổi là: Bảo Vụ) lác đác sao thưa;

Cơ tạo hoá, làm chi ngang ngửa thế, bóng khích câu, khen khéo trêu ngươi;

Chữ cương thường, nghĩ lại ngậm ngùi thay, tình hiếu điểu, chưa yên thoả dạ.

Ơn nuôi nấng, áo dày cơm nặng, biển trời khôn siết, mấy công lao;

Nghĩa sớm hôm, ấp lạnh quạt nồng, tơ tóc những hiềm, chưa báo trả;

ngờ đâu nhà Thung (hay nhà Huyên) khuất núi, trời mây cách trở muôn trùng;

Chồi Tử mờ sương, âm dương xa vời đôi ngả.

Trông xe hạc, lờ mờ ẩn bóng, cám cảnh cuộc phù sinh chưa mấy, gót tiên du, đã lánh cõi trần ai;

rồi khúc tằm, áy náy trong lòng, thương thay hồn bất tử về đâu, cửa Phật độ, biết nhờ ai hiện hoá.

suối vàng thăm thẳm, dáng phụ thân (hoặc mẫu thân) một bước lìa khơi,

giọt ngọc đầm đìa, đàn con cháu, hai hàng lã chã.

lễ sơ ngu (hay tái ngu, hoặc tam ngu) theo tục cổ trình bày;

Nhà đơn bạc, biết lấy gì dóng dã.

Đành đã biết: đất nghĩa trời kinh, nào chỉ ba tuần nghi tiết, đủ lễ báo đền;

Cũng gọi là: Lưng cơm chén nước, hoạ may chín suối anh linh, được bề yên thoả.

Ôi ! thương ôi ! thượng hưởng.”[6][6] 

Người Kitô hữu gốc miền Bắc vẫn còn giữ tập tục này nhưng đã chuyển hoá thành nghi thức của người Kitô giáo. Thay lễ tế ngu bằng những giờ kinh tối tại gia, nơi gia đình tang quyến. Sau khi chôn cất, làng xóm hay khu xóm tụ lại đọc kinh cầu nguyện cho người mới qua đời, ba buổi tối hay một suốt tuần buổi tối, tuỳ theo chủ gia xin cùng khu xóm. Sau giờ kinh, hoặc trước đó lúc ban ngày, gia đình tang quyến gửi xôi tới những gia đình trong khu xóm, để có phần nào là trả lễ cho người quá cố.

Vài nét trên đây để tìm hiểu về lễ tế ngu mà nhiều người còn thắc mắc.

Lm Giuse Hòang Kim Toan

CHUYẾN ĐI CUỘC ĐỜI

Đời người là một chuyến đi. Chuyến đi cuộc đời có những điều lạ.

Giống như mọi chuyến đi, nó cũng có một điểm khởi hành và một điểm đến. Nhưng không ai chọn lộ trình mình đi cả; nó là bắt buộc cho mọi người như nhau. Sinh ra là người ta đã được (bị?) đặt vào lộ trình rồi. Cây số xuất phát mang tên SINH, cây số của nơi kết thúc mang chữ TỬ. Một điều lạ khác là con đường tuy là như nhau nhưng lại dài ngắn khác nhau, và cũng không tùy thuộc nơi ý muốn hay ước mơ của khách lữ hành. Con đường hầu như luôn luôn được cảm nhận là quá ngắn ngủi. Nó thường được so sánh một cách nên thơ với "bóng câu qua cửa sổ" (câu là con ngựa tơ chạy rất nhanh) hoặc với "đóa phù dung sớm nở chiều tàn". Một thoáng đã hết! Dù người sống lâu trăm tuổi vẫn coi cuộc đời chỉ là "kiếp phù du":

Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,

Kiếp phù du trong thấy cũng nực cười! (Nguyễn Công Trứ).

(Phù du là một sinh vật sống dưới nước vừa mọc cánh bay lên được chốc lát là chết). Tác giả Thánh Vịnh cũng không lạc quan chút nào:

Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục

Mạnh giỏi chăng là được tám mươi

Mà chỉ là gian lao khốn khổ,

Cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi (Tv 89).

Một điều lạ nữa là chuyến đi cuộc đời có điểm đến là cái chết, nhưng không ai coi đó là cùng đích, là mục tiêu cả. Tự nhiên không ai muốn mau mau tới nơi, mà trái lại còn tìm cách lẫn tránh ngày giờ kết thúc. Đó là nhận xét của triết gia Pascal của Pháp thế kỷ XVII. Ông nói: người ta tìm kiếm mọi thứ vui chơi giải trí, người ta thậm chí lao mình vào công việc với tất cả nỗi đam mê, nhưng tựu trung đó chỉ là những cách "đánh trống lãng" để mình khỏi nghĩ đến cái chết mà thôi. Nhưng sớm muộn thần chết vẫn lù lù trước mặt mọi người. Nó chấm dứt mọi cuộc vui chơi, mọi đam mê, mọi vinh quang danh vọng ở đời. Nó san bằng mọi ngăn cách giữa nguời với người: giàu nghèo sang hèn, vua chúa hay hàng lê thứ, già trẻ, trai gái, mọi người đều bình đẳng trước thần chết.

Chuyến đi cuộc đời còn lạ ở chỗ mọi người đều chỉ đi có một lần duy nhất, không bao giờ làm lại lần thứ hai. Thuyết luân hồi biểu lộ một niềm tin, một niềm ao ước, không thể coi là một sự kiện.

Như đã nói, địa điểm tử thần là nơi đến của cuộc đời nhưng không phải là cùng đích hay mục tiêu con người nhắm tới. Mà sống ở đời, (để sống được ở đời), ắt phải có một mục đích chứ? Phải có cái gì làm cho cuộc đời đáng sống chứ?

Nhiều lần, khi nhìn thấy những đoàn người như những giòng chảy cuồn cuộn từ các vùng ngoại ô đổ vào nội thành rồi tỏa ra các đường phố như những nhánh sông nhỏ, tôi tự hỏi cái gì thôi thúc người ta lao vào công việc, vào cuộc sống? Phải chăng là ý chí sinh tồn? Nhưng sống mà thôi chắc chắn là không đủ rồi. Loài vật chẳng có bản năng sinh tồn mạnh mẽ sao?

Chuyến đi cuộc đời phải được định hướng bởi một mục tiêu đúng đắn nhất, một ý nghĩa cao cả nhất, nhờ đó người lữ hành sẽ biết chọn lựa các phương tiện đi đường thích hợp và có đủ sức mạnh tinh thần để vượt qua những khó khăn thử thách của chuyến đi. Mục đích đó phải nằm trong khát vọng sâu xa nhất của con người và xứng đáng với nó là sinh vật có trí khôn, tự do, trách nhiệm và đạo đức.

Có hai khát vọng sâu thẳm nung nấu tâm hồn mỗi người chúng ta, một là khát vọng sống và sống mãi mãi, hai là khát vọng yêu thương và được yêu thương. Không có hạnh phúc nào, nếu thực sự là hạnh phúc, mà không liên quan tới hai khát vọng mãnh liệt ấy. Vậy, tình yêu và sự sống hẳn là những giá trị làm cho cuộc đời đáng sống. Cuộc đời nào phục vụ cho tình yêu và sự sống là cuộc đời có ý nghĩa cao cả nhất. Thiển nghĩ, với trí khôn và kinh nghiệm, chúng ta đã có thể tìm ra ý nghĩa tức là định hướng cho cuộc đời rồi vì nó nằm ngay trong chính bản tính con người. Nhưng đức tin vào Đức Kitô củng cố và xác định rõ hơn ý nghĩa đó.

Không tác giả Tân Ước nào đã suy gẫm sâu sắc và nhiều về đề tài tình yêu và sự sống như thánh Gioan. Ở đây tôi xin trích dẫn một vài đoạn thôi. "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi chết nhưng được sống muôn đời" (Ga 3, 16). "Tôi đến để cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào. Tôi là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đoàn chiên" (Ga 10, 10-11). "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga 15, 12-13). "Chúng ta biết rằng chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết" (1 Ga 3, 14). Như thế, thánh Gioan gắn liền, thậm chí đồng hóa sự sống với tình yêu và sự chết với thù ghét. Nhưng có một sự chết gắn liền với sự sống, đó là chết vì tình yêu, chết cho kẻ khác được sống. Những suy gẫm này dựa trên chính cuộc đời và lời dạy của Chúa Giêsu. Nhiều khi người ta gọi Đức Giêsu là một "con người vì kẻ khác".

Chúng ta có thể rút ra chân lý cốt lõi và hệ trọng sau đây cho chuyến đi cuộc đời của chúng ta: cuộc đời thành tựu, cuộc đời đầy ý nghĩa là cuộc đời mang lại sự sống và hạnh phúc cho kẻ khác, dù là ở mức độ nào và bất kể bằng những hành động âm thầm khiêm tốn hay lớn lao hiển hách nào.

Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô

Mục lục

 

TÂM SỰ VỚI NGƯỜI ĐÃ KHUẤT

 

Khi chiếc quan tài của bạn lạnh lùng được hạ sâu xuống lòng đất xong, mọi người ra về mà lòng không khỏi bùi ngùi, xót xa và thương tiếc. Bởi đó là cuộc chia tay vĩnh viễn, để không bao giờ nhìn thấy nhau nữa !…

 

 Chúng ta không thể hiểu được tại sao ngày hôm trước mới gặp nhau nhưng rồi ngày hôm sau bạn đã âm thầm lặng lẽ ra đi. Hình ảnh đau xót nhất có lẽ là khi chứng kiến cảnh tượng bạn nằm đó mà nghìn trùng xa cách… 

 

Mỗi người vẫn tự hỏi “Không lẽ kiếp người lại bi đát đến thế sao ?”. Vâng sự ra đi của bạn  hiển nhiên là một quy luật bất di bất dịch của kiếp nhân sinh. “Sinh, bệnh, lão, tử ”.

 

Nhưng hôm nay chính cái chết của bạn đã phục sinh tâm trạng và ý nghĩ của chúng tôi - những người còn “lang thang cõi trần” – về định mệnh của mình.

 

Bạn ra đi nhưng bạn vẫn còn đó. Chúng tôi tin như  thế. Bạn nhắm mắt xuôi tay nhưng đó không phải là sự khép lại của cuộc sống, mà chính là sự chấm dứt của hữu hạn để mở ra vô hạn. Cái chết được nhìn nhận như một bản lề của cuộc sống. Sự im lặng của bạn chính là sự thăng hoa đã đạt đến tột đỉnh. Bạn đã về nhà Cha, ở chốn cao hơn, xa hơn…

 

Chúng tôi chạnh lòng nghĩ đến một nghịch lý này, đó là trong khi chúng tôi đang than khóc, tiếc nuối cho bạn thì bạn lại đang thương xót cho chúng tôi. “Sinh ký tử quy ”, bạn đã đến được chỗ phải đến, đã kết thúc cuộc hành trình “Một cõi đi về ”. Ngày hôm nay, sở dĩ bạn  im lặng là vì cuộc sống và con người của bạn đã biến đổi. Bạn đã vượt qua không gian và thời gian để đi vào thực tại mênh mông diệu vợi của vĩnh cửu, của vô tận.

 

 Bạn đang cao hơn, xa hơn…là chúng tôi tưởng !

 

 Chính vì bạn cao hơn, xa hơn, kỳ diệu hơn nên chúng ta không thể “nói với nhau” bằng cách thông thường. Nhưng bạn vẫn có “tín hiệu” đấy chứ ? Trong im lặng thẳm sâu của lòng mình, chúng tôi đã nghe được “tín hiệu” của bạn. Bạn không còn sử dụng những hoạt động bình thường như nói, nghe, suy nghĩ, cười, khóc…nữa mà duy nhất giữa chúng ta hiện hữu một sự “giao cảm” đặc biệt. Đó cũng là một sự “thông hiệp” kỳ diệu, gần gũi và sâu xa vô cùng.

 

Trong sự thông hiệp này, chúng tôi không cần “nói” gì mà cần “nghe” bạn nhiều hơn. Vì bạn đã quá hiểu cuộc sống này rồi. Phần chúng tôi, chúng tôi hoàn toàn chưa có một chút kinh nghiệm nào về cuộc-sống-sau–cái-chết cả !

 

Bởi vậy, bắt được “tín hiệu” của bạn để “nghe” bạn “nói”, quả thực, là một điều hấp dẫn và thú vị vô cùng. Vì bạn là một Kitô hữu nên chúng tôi tin rằng bạn đang hiện hữu và hiện diện như Đức Kitô, bởi vì bạn đã ở trong Ngài, đã thuộc về Ngài . Mà Đức Kitô thì hằng sống. Vậy bạn cũng đang sống và hoạt động với Ngài, trong Ngài.

 

Thông điệp của bạn không gì khác hơn là sứ điệp của Đấng Phục Sinh và của Thiên Chúa.

 

Bạn sẽ nhắc bảo chúng tôi rằng “Về Thiên Chúa chỉ có một điều cần và đủ để nói, đó là YÊU THƯƠNG ”. Bí mật của Thiên Chúa mà bạn muốn thông chia cho chúng tôi cũng là lời mạc khải của thánh Gioan “Thiên Chúa là Tình Yêu”(Deus Caritas est ).

 

Thật là đơn giản nhưng chắc chắn bạn đang hạnh phúc tràn đầy với  “thực tại đơn giản” ấy. Hiện tại, chúng tôi chỉ có thể chạm vào sự thật đơn giản ấy bằng lòng tin yêu và hy vọng, còn bạn, bạn đã “chiếm” được rồi. Thiên Chúa như thế nào bạn “xem thấy” như vậy.

 

Đôi lúc, vì còn trong thân xác, nên chúng tôi không hiểu rằng sở dĩ bạn “im lặng”, có khi đến lạnh lùng, chỉ vì bạn đã ở trong cõi vĩnh hằng của Thiên Chúa. Bạn vô hạn còn chúng tôi hữu hạn. Bạn tuyệt đối còn chúng tôi tương đối. Bạn bất tử còn chúng tôi đang hành trình vượt qua.

 

Hiện tại, khoảng cách giữa bạn và chúng tôi, xa mà gần, gần mà xa. Nhưng có một điều chắc chắn là bạn đang hút chúng tôi về với bạn. Bởi vì bạn muốn chúng tôi cùng chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với bạn. “Phúc cho những ai đã chết, mà chết trong Chúa” (Kh 14,13)./.  

 

Aug. Trần Cao Khải – Gx Trung Mỹ Tây 

Mục lục

·         

·         

Text Box: SỐNG CHỨNG NHÂN 
 


 

CECILIA, TRINH NỮ LẬP GIA ĐÌNH VÀ TỬ ĐẠO

Theo sử gia C. Erbes viết cuốn PASSIO - THƯƠNG KHÓ, thì trinh nữ Cecilia tử đạo khoảng năm 229-230, dưới thời hoàng đế Severo Alessandro (222-235) và quan tổng trấn Turcio Almachio trị vì thành Roma. Trước đó, trinh nữ đã đem chồng cùng em chồng (Valeriano và Tiburzio) trở lại Kitô Giáo. Sau đó cả ba cùng được hồng phúc lãnh nhận triều thiên tử đạo.

1. Thánh Lễ tại hang toại đạo.

Vào một đêm khuya khoảng năm 229, Đức Giáo Hoàng Urbano I (222-230) cử hành Thánh Lễ trong hang toại đạo (ngày nay mang tên ”San Calisto”) ở ngoại ô thành phố Roma cho các tín hữu Kitô hầm trú. Hiện diện trong Thánh Lễ có đủ hạng người thuộc mọi giai cấp: từ các phó tế đến các trinh nữ, từ các cụ già đầu bạc đến những bà mẹ gia đình, từ người nghèo khổ cùng đinh đến nhà quý tộc Roma. Tất cả trở thành MỘT trong Bí Tích RỬA TỘI và trong Đức Tin vào Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ loài người.

Trong số các trinh nữ có Cecilia, thuộc dòng quý tộc. Cecilia đính hôn với Valeriano, thanh niên ngoại giáo cũng thuộc hàng quý tộc. Và nghi lễ thành hôn giữa đôi trai thanh gái lịch sẽ được tổ chức long trọng vào sáng ngày hôm đó.

Bài Sách Thánh đọc trong Thánh Lễ trích từ Phúc Âm theo thánh Matthêu, chương 25 câu 1-13. Nước Trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô thiếp đi và ngủ cả. Nửa đêm có tiếng hô to: ”Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người”. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan: ”Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả”. Các cô khôn ngoan đáp lại: ”E không đủ cho chúng em và cho các chị, các chị ra quán mà mua thì hơn”. Song khi họ đang đi mua thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng, các trinh nữ kia cũng đến và nói: ”Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi”. Nhưng Người đáp lại: ”Ta bảo thật các ngươi, Ta không biết các ngươi”. Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào.

Sau bài Phúc Âm, Đức Giáo Hoàng Urbano I (222-230) giảng. Ngài nói:

- Bài Dụ ngôn nói về các trinh nữ, nhưng cũng nhắm đến mọi tâm hồn, bởi vì, giá Máu Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế và Ơn Thánh Rửa Tội làm cho các linh hồn lại trở nên trắng tinh như những trẻ thơ trong khi chờ đợi Đức Lang Quân đến.

- Hãy mĩm cười đi hỡi các cụ già yếu; hãy ngẩng mặt lên hỡi các vị quý tộc, những người mà mãi đến hôm qua còn chìm sâu trong bùn nhơ của ngoại giáo thối nát; hãy ngước cao hỡi các bà mẹ cùng các hiền thê và đừng nuối tiếc tuổi thơ trong trắng. Tâm hồn anh chị em không khác gì tâm hồn của các trinh nữ đang đứng bao quanh bên bàn thờ này. Tâm hồn anh chị em có cùng vẻ đẹp của các trinh nữ, khi anh chị em được tái sinh trong Phép Rửa và biết ở lại trong Đức KITÔ, Chúa chúng ta. Chúa đến làm cho linh hồn rạng rỡ hơn bình minh xuất hiện trên đỉnh đồi, linh hồn mà trước đây bị nhơ nhớp và đen đủi vì các tật xấu ghê tởm nhất. Lòng thống hối rửa sạch linh hồn khỏi bợn nhơ, ý chí tẩy luyện linh hồn khỏi tỳ ố, nhưng Tình Yêu, Tình Yêu của Đấng Cứu Độ chúng ta, Tình Yêu đến từ Máu Thánh của Ngài sẽ trao trả lại cho anh chị em sự trinh khiết vẹn tuyền. Không phải sự trinh khiết của ngày anh chị em chào đời, nhưng là sự trinh khiết của hai vị Tổ Tông chúng ta: Adong và Evà, trước khi hai vị bị Satan cám dỗ và sa ngã phạm tội. Đó là sự trong trắng vô tội của bậc thiên thần, đó là hồng ân Chúa mặc cho Tổ Tông, trước mắt THIÊN CHÚA và trước mắt vũ trụ.

- Ôi thánh thiện thay sự trinh khiết của đời sống Kitô! Sự trinh khiết được tắm gội bằng Máu của THIÊN CHÚA, Đấng đổi mới và làm cho chúng ta trở nên trong trắng như Người Nam và Người Nữ đầu tiên được bàn tay Đấng Tạo Hóa nhào nặn nên. Đây là cuộc tái sinh trong đời sống Kitô, cuộc tái sinh báo trước cuộc sinh lại lần thứ ba trên Thiên Quốc khi chúng ta được Chúa gọi về với Ngài. Lúc đó tâm hồn chúng ta sẽ trắng tinh nhờ Đức Tin hoặc nhuộm đỏ vì máu đào tử đạo, đẹp đẽ như các thiên thần và xứng đáng chiêm ngưỡng cùng bước theo Đức GIÊSU KITÔ, Con THIÊN CHÚA, Đấng Cứu Độ chúng ta!

- Nhưng hôm nay, ngoài các linh hồn được tìm thấy trở lại đức trinh khiết nhờ Bí Tích Rửa Tội, tôi muốn ngỏ lời cách riêng với các linh hồn thanh khiết ẩn trong một thân xác trinh khiết với ý chí giữ nguyên vẹn đức trinh khiết. Tôi muốn nói với các trinh nữ khôn ngoan đã hiểu lời mời gọi yêu thương của Chúa chúng ta và của thánh Gioan, vị tông đồ đồng trinh, để bước theo CON CHIÊN. Đó là những người giữ mình đồng trinh vì Tình Yêu THIÊN CHÚA (Khải Huyền 14,4). Và tôi ngỏ lời với trinh nữ - anh dũng trong Đức Tin, đức cậy và đức mến - ngay đêm nay tìm nuôi dưỡng bằng Thịt Tinh Khiết của Ngôi Lời và kín múc sức lực nơi Máu Con Chiên như Rượu Thiên quốc để được hùng dũng trong trận chiến.

- Một trinh nữ đang có mặt giữa anh chị em đây sẽ đứng lên từ bàn thờ này để ra đi gặp gỡ một định mệnh mà tên gọi gắn liền với ”cái chết”. Trinh nữ ra đi trong niềm tin tưởng nơi THIÊN CHÚA - không phải một niềm tin bình thường - nhưng là Đức Tin trổi vượt, hoàn hảo, vì chẳng những tin vào sự che chở phù trợ của THIÊN CHÚA cho chính mình, mà còn tin cho người khác và hy vọng sẽ đem về bàn thờ này, người mà ngày mai sẽ là chồng trước mắt thế gian, nhưng lại là anh em dấu ái trước mắt THIÊN CHÚA. Đáng ca tụng thay đức trinh khiết trọn hảo, vì nó ban sức mạnh đến nỗi trinh nữ không sợ bị hãm hiếp, không sợ cơn giận lôi đình của chồng, không sợ sự yếu đuối của giác quan, không sợ bị đe dọa, bị thất vọng, cũng không nao núng trước nỗi sợ hãi và hầu như chắc chắn sẽ tử đạo.

- Hãy đứng lên và hãy mĩm cười với Đức Lang Quân thật của con, hỡi trinh nữ trong trắng của Đức Chúa KITÔ. Con hãy ra đi gặp chàng trai nhưng đôi mắt không rời Đức Chúa GIÊSU để rồi mang chàng về đây với Ngài. Đức Chúa GIÊSU đang nhìn con và mĩm cười cùng con. Cả Đức Mẹ MARIA là Trinh Nữ cũng mĩm cười với con và các Thiên Thần đang làm triều thiên vây quanh con. Hãy đứng lên và đến kín múc nơi nguồn suối tinh khiết trước khi ra đi vác thánh giá và vinh quang của con.

- Hãy đến, hỡi hiền thê của Đức Chúa KITÔ. Hãy lập lại với Ngài ca khúc diễm tình của con trước sự hiện diện của những khuôn mặt, dấu ái hơn chiếc nôi ru con ngày con chào đời và hãy mang ca khúc này theo con cho đến lúc hồn con lại hát vang lên khi bước vào Thiên Đàng, trong khi thân xác con an nghỉ trong vòng tay của Người Mẹ thật của con là Giáo Hội Tông Truyền.

... Sau Thánh Lễ, các tín hữu Kitô hầm trú Roma âu yếm vây quanh trinh nữ Cecilia. Trông cô thật duyên dáng mỹ miều. Cecilia có giọng nói thánh thót với nét cười và khuôn mặt của một thiên thần. Có người không cầm được nước mắt. Người khác sung sướng mĩm cười. Có người thắc mắc sao Cecilia lại chọn hôn lễ trần gian. Lại có người lo lắng không biết ông chồng ngoại giáo tương lai của Cecilia sẽ phản ứng ra sao khi khám phá ra vợ mình là tín hữu Kitô???

Một trinh nữ lấy làm tiếc vì Cecilia từ bỏ cuộc sống đồng trinh. Cecilia cất tiếng vừa trả lời bạn vừa ngụ ý giải thích cho mọi người hiểu quyết định của mình:

- Bạn lầm rồi. Tôi không từ bỏ đức trinh khiết đâu. Tôi tận hiến cho Chúa thân xác cùng con tim tôi và tôi không lấy lại điều đã dâng hiến. Tôi yêu mến Chúa còn hơn yêu mến cha mẹ bà con. Nhưng tôi yêu mến những người thân đến độ không muốn thấy họ chết trước khi được Chúa gọi về. Tôi yêu Đức Chúa GIÊSU, Vị Lang Quân Vĩnh Cửu của lòng tôi, hơn bất cứ người đàn ông nào khác. Nhưng tôi cũng yêu họ đến độ chọn quyết định lập gia đình để cứu linh hồn Valeriano. Chàng yêu tôi và tôi cũng yêu chàng một cách trong trắng, vẹn toàn, đến nỗi muốn chàng được cùng tôi sống trong Ánh Sáng và Chân Lý. Tôi không sợ chàng nổi giận. Tôi hy vọng Chúa giúp tôi chiến thắng chàng. Tôi hy vọng Đức Chúa GIÊSU giúp tôi đem người chồng trần gian trở về với Kitô Giáo. Nhưng nếu tôi không thuyết phục được chàng thì tôi sẽ sớm lãnh nhận triều thiên tử đạo. Nhưng không phải vậy. . Tôi trông thấy ba triều thiên từ trời rơi xuống. Hai cái giống nhau còn cái thứ ba gắn ba hạt trân châu. Hai triều thiên giống nhau lấp lánh những viên hồng ngọc. Triều thiên thứ ba có hai mặt gắn hồng ngọc và một giải băng toàn bằng bạch ngọc. Cả ba triều thiên đang đón chờ chúng tôi. Vậy xin anh chị em đừng lo sợ gì cho tôi. Uy quyền của THIÊN CHÚA sẽ bảo vệ tôi. Nơi thánh đường này, chúng ta lại sớm họp nhau để chào mừng những người anh em mới của chúng ta. Xin chào từ biệt trong Chúa.

Các tín hữu Kitô ra khỏi hang toại đạo và chia tay, mỗi người đi về nhà mình. Trời vẫn còn tối. Rạng đông chỉ mới bắt đầu ló dạng. ..

2. Đêm tân hôn của đôi bạn Cecilia-Valeriano

Sau một ngày tưng bừng náo nhiệt của lễ cưới theo nghi thức ngoại giáo, Cecilia cùng hai nữ tỳ Kitô của mình bước vào khuê phòng.

Cả ba cùng sốt sắng cầu nguyện. Để có hình Thánh Giá, Cecilia chấm ngón tay vào lọ nước rồi vạch hình Thánh Giá trên tường. Xong, hai nữ tỳ cởi tất cả đồ trang sức lộng lẫy và mặc cho Cecilia chiếc áo giản dị bằng len trắng tinh. Mái tóc dài được thắt lại bỏ hai bên. Trông Cecilia giống như thiếu nữ đơn sơ trong trắng ở lứa tuổi trăng tròn (trong khi nàng trạc tuổi 18-20). .

Cả ba lại quỳ gối và cùng sốt sắng đọc kinh lần nữa. Xong, Cecilia ra hiệu cho hai nữ tỳ lui gót và trở lại với hai nữ tỳ cao tuổi của gia đình Valeriano. Sau khi chuẩn bị đủ mọi nghi thức cho cô dâu tiếp đón chàng rể, cả bốn nữ tỳ lui gót. Chỉ còn lại Cecilia. (Vừa khi các nữ tỳ rời phòng, Cecilia ra khỏi giường và đứng lên đợi Valeriano).

Valeriano bước vào phòng. Chàng giang rộng đôi tay và âu yếm tiến về phía vợ. Trên khuôn mặt chàng biểu lộ tình yêu dạt dào. Cecilia mĩm cười đáp lại, nhưng không tiến lên đón tiếp Valeriano. Cecilia đứng im giữa phòng.

Valeriano kinh ngạc tột độ. Chàng tức khắc nổi giận vì tưởng rằng các nữ tỳ không làm tròn bổn phận. Nhưng Cecilia trấn an Valeriano và nói chính nàng muốn đứng đợi chàng.

- Vậy thì hãy đến đây, hỡi Cecilia của anh,

vừa nói Valeriano vừa giang tay định ôm hôn Cecilia:

- Hãy đến, vì anh yêu em nhiều lắm!

- Em cũng vậy. Nhưng xin anh đừng chạm đến em. Đừng xúc phạm em vì những vuốt ve loài người!

- Nhưng, Cecilia!. . Em là vợ anh mà!

- Em thuộc về THIÊN CHÚA, Valeriano à. Em là Kitô hữu. Em yêu anh, nhưng với linh hồn thuộc về Trời Cao. Anh không cưới một người đàn bà, nhưng cưới một ái nữ của THIÊN CHÚA có các Thiên Thần hầu cận. Và Thiên Thần Chúa đang ở cạnh em để hộ vệ em. Xin anh đừng xúc phạm thụ tạo Thiên Quốc với cử chỉ của tình yêu thô tục. Nếu không, anh sẽ bị trừng phạt!

Valeriano ngạc nhiên đến độ sững sờ. Ban đầu, nỗi kinh ngạc làm chàng đứng im như trời trồng. Nhưng rồi cơn giận đùng-đùng nổi lên, khiến chàng vung chân múa tay và la hét ầm ĩ:

- Em phản bội anh! Em xem anh như đồ chơi của em! Anh không tin thế! Anh không thể tin và cũng không muốn tin rằng em là Kitô hữu. Em hiền hậu, em kiều diễm và em thông minh, nên không thể nào em lại đi theo thứ tôn giáo ngu-xuẩn được! Không, không thể!. . Em chỉ nói chơi thôi. Em chỉ muốn vui đùa như một bé gái. Hôm nay là lễ của em mà! Nhưng trò chơi quá tàn nhẫn. Thôi đủ rồi, hãy đến với anh!

- Em là tín hữu Kitô thật, chứ không nói đùa đâu. Em hãnh diện mình là tín hữu Kitô, bởi vì, tín hữu Kitô có nghĩa là được cao trọng ở đời này và đời sau. Em yêu anh, Valeriano à. Em yêu anh đến độ chấp nhận làm vợ anh để đưa anh về với Chúa và để cùng anh sống trong Chúa.

- Khốn cho em, hỡi kẻ điên dại và bội thề! Sao em lại phản bội anh? Em không sợ anh trả thù sao?

- Không, em không sợ, bởi em biết rõ anh là bậc quân tử, là người nhân hậu và anh yêu em! Không, em không sợ, vì em biết anh không dám kết án em bao lâu chưa tìm ra bằng chứng em có lỗi. Và em không có lỗi gì hết. .

- Em nói dối khi nói đến thiên sứ và thần linh. Làm sao anh có thể tin điều này? Anh phải thấy rồi mới tin và nếu anh thấy. . nếu anh thấy. . anh sẽ kính trọng em như vị thiên thần. . Nhưng lúc này đây em là vợ anh. Anh không thấy ai khác, ngoài em.

- Valeriano, anh có thể tin là em nói dối sao? Anh có thể tin như vậy sao, chính anh là người biết rõ em? Chỉ người hèn nhát mới nói dối, Valeriano à! Vậy xin anh hãy tin những gì em nói với anh. Nếu anh muốn trông thấy Thánh Thiên Thần Bản Mệnh của em, thì hãy tin nơi em rồi anh sẽ trông thấy ngài. Hãy tin nơi em, người yêu anh. Anh thấy đó, em đang ở một mình với anh. Anh có thể giết chết em. Nhưng em không sợ. Em đang ở trong tay anh và anh có thể tố giác em với quan tổng trấn. Nhưng em không sợ. Thánh Thiên Thần Bản Mệnh em sẽ che chở em dưới bóng cánh ngài. Ồ, phải chi anh thấy được ngài!

- Làm thế nào để anh thấy được ngài?

- Hãy tin những gì em tin. Anh nhìn đây: nơi ngực em có cuộn giấy nhỏ. Anh biết là gì không? Đó là Lời của THIÊN CHÚA em. THIÊN CHÚA không nói dối và Ngài bảo những ai tin Ngài đừng sợ, bởi vì, ”Thầy ban cho các con quyền năng để đạp lên rắn rết bọ cạp và mọi thế lực kẻ thù, mà chẳng có gì làm hại được các con” (Luca 10,19).

- Em nói thế chứ có hàng vạn Kitô hữu bị giết chết nơi các hí trường!

- Không. Các Kitô hữu không chết. Chúng em sống mãi mãi. Bồng Lai Tiên Giới không có, nhưng Thiên Đàng hiện hữu thật sự. Trên Thiên Đàng không có các thần linh dối trá, những kẻ vũ phu đam mê khoái lạc, nhưng chỉ có các thần thánh, sống trong ánh sáng và hòa điệu thiên quốc. Em đang cảm như thế. . Em đang thấy như thế. . Ôi Ánh Sáng. . Ôi Tiếng Hát. . Ôi Thiên Đàng. . Xin hãy xuống đây! Xin hãy xuống đây! Xin hãy xuống và làm cho lang-quân con trở thành kẻ thuộc về Thiên Quốc. Vòng hoa thiên quốc trước hết xin dành cho chàng chứ không cho con. Phần con, con chấp nhận nỗi đau đớn không được chàng yêu thương, nhưng vui mừng trông thấy chàng được Chúa yêu và đưa vào sống với Chúa, trước khi con đến. Ôi niềm vui Thiên Đàng! Ôi tiệc cưới vĩnh cửu! Valeriano anh à, chúng ta sẽ nên MỘT trước mặt THIÊN CHÚA, đôi bạn đồng trinh, hạnh phúc hưởng nếm tình yêu hoàn hảo.

Cecilia thật sự xuất thần. .

Valeriano chăm chú nhìn Cecilia, lòng đầy ngưỡng mộ và xúc động.

- Làm thế nào. . làm thế nào anh giống như em được? Anh là chàng quý tộc La-Mã. Hôm qua đây, anh còn là kẻ ăn chơi trác táng, vũ phu. Vậy làm sao anh có thể giống như em được, hỡi vị thiên thần?

- THIÊN CHÚA em đã đến để trao ban sự sống cho kẻ chết, chết về phần linh hồn. Anh hãy tái sinh trong Ngài thì sẽ nên giống như em. Chúng ta cùng đọc Lời Ngài và hiền-thê anh sẽ sung sướng được làm cô giáo dạy anh. Rồi em sẽ đưa anh đến gặp vị giáo hoàng thánh thiện. Ngài sẽ ban cho anh ánh sáng toàn vẹn và ơn thánh. Như người mù được mở mắt, anh sẽ trông thấy. Ồ! hãy đến, Valeriano, và hãy lắng nghe Lời Vĩnh Cửu đang hát thánh thót trong tim em!

Nói xong, Cecilia cầm tay dắt Valeriano - lúc này trông thật khiêm nhu và ngoan hiền như một chú bé - cả hai đến ngồi trên hai chiếc ghế cạnh nhau. Và Cecilia bắt đầu đọc chương I Phúc Âm theo thánh Gioan cho đến câu 14, rồi chương III, ghi lại cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô.

Giọng Cecilia giống như tiếng nhạc đàn thụ cầm khi nàng đọc những đoạn sách thánh và Valeriano chăm chú lắng nghe. Ban đầu chàng đặt đầu mình trên hai tay chống trên hai đầu gối với dáng điệu nghi ngờ và cứng tin, nhưng dần dần, chàng tựa đầu trên vai vợ, đôi mắt nhắm nghiền và chăm chú lắng nghe Cecilia đọc Phúc Âm. Khi Cecilia ngừng lại thì chàng nài nĩ:

- Em đọc nữa, đọc nữa đi!

Cecilia đọc thêm vài đoạn trong Phúc Âm theo thánh Matthêu và thánh Luca, rồi trở lại Phúc Âm theo thánh Gioan.

Giờ đây Valeriano lặng lẽ khóc. Nước mắt chảy dài từ đôi mi khép kín. Cecilia trông thấy và mĩm cười, nhưng không nói năng gì cả.

Nàng đọc tiếp đoạn Phúc Âm kể chuyện tông đồ Toma cứng tin. Đọc xong, Cecilia lặng thinh. ..

Cả hai cứ ngồi im như thế, một người chìm sâu trong Chúa, một người chìm đắm trong chính mình, cho đến lúc Valeriano kêu lên:

- Anh tin. Anh tin, Cecilia à. Chỉ mình THIÊN CHÚA Chân Thật mới có thể nói những Lời này và yêu thương như thế. Hãy đưa anh đến gặp vị giáo hoàng của em. Anh muốn yêu những gì em yêu, muốn những gì em muốn. Đừng sợ anh nữa, Cecilia à. Chúng ta sẽ là đôi vợ chồng trong Chúa và sống như hai anh em ruột. Hãy đi ngay, bởi vì anh muốn trông thấy điều em trông thấy: Vị Thiên Thần của sự ngây thơ trong trắng của em.

Cecilia rạng rỡ đứng lên, mở tung cửa sổ, kéo màn ra để ánh sáng ban mai chiếu dọi vào phòng. Rồi Cecilia cất tiếng đọc kinh LẠY CHA. Nàng đọc thật chậm để Valeriano có thể theo dõi. Rồi nàng giơ tay vạch hình Thánh Giá trên trán và trên ngực Valeriano. Xong, nàng cầm lấy tay phải của Valeriano và hướng dẫn tay chàng làm dấu Thánh Giá trên trán, trên ngực, trên hai vai. Và tay trong tay, Cecilia sung sướng đưa Valeriano đến gặp Đức Giáo Hoàng Urbano I.

 ( Còn tiếp ) 

Mục lục

 

 

Text Box: CÙNG ĐỌC & SUY GẪM 
 


 

Hóa đơn

Peter là con trai của một chủ cửa hàng bách hóa nhỏ đầu phố. Cậu thường đến cửa hàng của mẹ chơi. Mỗi ngày cửa hàng đều có không ít những hóa đơn trả tiền hoặc thu tiền hàng cần thanh toán hoặc chuyển đến khách hàng. Peter thường được mẹ giao nhiệm vụ đem những hóa đơn đó đến bưu điện gửi. Dần dần việc này khiến cậu cảm thấy dường như mình cũng đã trở thành một nhà kinh doanh nhỏ.


Ngày kia Peter nghĩ : mình cũng viết một hóa đơn gửi cho mẹ, trong đó viết rõ những khoản mà mẹ phải trả cho mình về những gì đã giúp cho mẹ mỗi ngày.


Sáng hôm sau, mẹ cậu nhận được hóa đơn đó ghi rõ :


"Mẹ cần thanh toán cho con trai Peter những khoản như sau :


- Vận chuyển đồ dùng về nhà : 2 đồng.


- Đem thư đến bưu điện gửi : 1 đồng.


- Giúp người lớn dọn dẹp vườn hoa : 2 đồng.


- Cả tuần lễ con đều ngoan ngoãn và vâng lời : 1 đồng.


Tổng cộng : 6 đồng"


Mẹ Peter xem hóa đơn và không nói gì cả.


Đến bữa tối, Peter phát hiện dưới khay ăn của mình 6 đồng tiền công. Cậu rất vui, nhưng vừa định bỏ tiền vào túi thì thấy kèm theo là một hóa đơn thu tiền khác mà tên người nhận lại là cậu. Peter rất ngạc nhiên.


"Peter cần thanh toán cho mẹ những khoản sau :


- Sống 10 năm hạnh phúc trong ngôi nhà của mẹ : 0 đồng.


- Khoản chi phí cho việc sinh hoạt ăn uống trong 10 năm : 0 đồng.


- Khoản tiền mẹ chăm sóc Peter mỗi khi đau bệnh: 0 đồng.


- Từ đó đến nay Peter luôn có một người mẹ thương yêu và chăm sóc : 0 đồng.


Tổng cộng : 0 đồng".


Peter đọc đi đọc lại tờ hóa đơn. Cậu hối hận đến đỏ cả mặt. Lát sau, Peter đến bên mẹ và rúc vào lòng mẹ, nhè nhẹ bỏ 6 đồng tiền vào túi mẹ.

 

Mộng Tuyền ( sưu tầm từ Internet)

Mục lục

 

Text Box: TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

  

 

 


 

YÊU, MỘT VŨ ĐIỆU HAI NHỊP

Nhiều bạn trẻ bước vào tình yêu hễ hơi gặp khó khăn đau khổ là chán nản thất vọng. Các bạn đó đòi hỏi người yêu phải chiều chuộng mình và tạo niềm vui cho mình nhưng chính mình lại quên thể hiện tình yêu của mình qua những hy sinh cho người mình yêu. Thực ra tình yêu là một vũ điệu hai nhịp: có bước tiến bước lui, bước lên bước xuống, có cho có nhận, có hạnh phúc và đau khổ. Vẫn biết rằng yêu là đau khổ, nhưng trong đau khổ có hạnh phúc. Đúng hơn, thách đố, đau khổ là một cơ hội để chứng minh tình yêu.

1. Vũ điệu: cho- nhận

Một tình yêu chân chính không phải là một trạng thái hưởng thụ một chiều nhưng là một truyền thông hai chiều có cho có nhận. Cho và nhận chính là hai nhịp trong vũ điệu tình yêu. Người chỉ biết nhận mà không biết cho là người ích kỉ không bao giờ nếm cảm được niềm vui của tình yêu đích thực. Nhưng cho là phải hy sinh, đau khổ. Vì thế mà nhiều người đã rất nhất trí với tư tưởng:”Yêu là chết trong lòng một tí”. Riêng cô Tiến sĩ Tin học Phan Thị Hà Dương khi được phỏng vấn về tình yêu gia đình còn nhấn mạnh hơn rằng :”Yêu là tát cạn bản thân mình” (PNCN ngày 8.3 số8.2000). Như thế, theo cô Hà Dương thì yêu không phải là chết trong lòng một tí mà là hy sinh, tất cả bản thân mình. Đức Giêsu khẳng định :”Không có tình yêu nào lớn hơn người hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu”. Đúng thế, tình yêu của các anh hùng ái quốc, của những người dám buông mình vào lũ lụt đế cứu sống đồng loại luôn được ghi nhớ muôn đời trong lòng dân tộc. Nhưng một điều kì diệu thật tuyệt vời là trong cái hy sinh chết đi cho tình yêu ấy chúng ta lại không mất đi, nhưng chính lúc cho là lúc nhận, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc hy sinh là lúc gieo trồng hạnh phúc. Cha mẹ được con ái yêu kính vì chúng thực sự cảm nhận được tình thương vô vị lợi của các ngài. Và chúng ta cũng thường cảm nhận tình yêu đích thực đối với một người nào đó đã quảng đại hy sinh cho chúng ta.

2. Vũ điệu: hạnh phúc và đau khổ

Nhiều người đã tâm sự; sở dĩ họ có được gia đình hạnh phúc, vợ chồng cảm thông, con cái thành đạt như ngày hôm nay là nhờ họ đã có ý chí phấn đấu để vượt qua được những phút xao lòng của thời trai trẻ để chung thuỷ với nhau. Ví dụ minh hoạ: hy sinh chon lựa khi có người thứ ba xuất hiện, trong tình yêu, trong đời sống gia đình. Đối với các bạn trong gia đoạn tiền hôn nhân, khi đã chọn đính hôn với một ai rồi là đương nhiên các bạn phải hy sinh những tình yêu khác. Trong đời sống gia đình cũng thế, khi người thứ ba xuất hiện, nếu các bạn không biết hy sinh các bạn sẽ sống ngoại tình là nguyên nhân của sự đổ vỡ hạnh phúc. Có nhiều gia đình khi còn nghèo đói vợ chồng cùng nhau vượt qua biết bao đau khổ trong an vui hạnh phúc nhưng khi có sự nghiệp và chúc vụ thì chồng hoặc vợ đã đi tìm sự hưởng thụ riêng không còn biết hy sinh cho nhau nữa, và từ đó tình yêu chấp cánh bay đi để lại sự bất hạnh cho nhau và cho con cái.
Một hy sinh trong vũ điệu tình yêu đối với các bạn trẻ mà hôm nay tôi muốn nhấn mạnh ở đây là vấn đề tự chủ về tình cảm để chứng minh tình yêu đích thực của mình. Tình yêu không thể thử nghiệm bằng tình dục, nó để lại nơi người bạn của mình một trạng thái bất an và ân hận suốt đời. Thường thì những mối tình thiếu hy sinh đều kết thúc bằng sự đổ vỡ. Còn đối với những bạn thực sự yêu nhau thì luôn biết tôn trọng nhau và xây dựng hạnh phúc lứa đôi bằng chính năng lực và sự nghiệp của mình.

Nữ tu Têrêsa Phạm Thi Oanh,OP

Chuyên viên tư vấn tâm lý giáo dục tình yêu hôn nhân gia đình

Mục lục

 

 

Text Box: ĐỌC SÁCH

  

 


 

GIÃ TỪ QUÁN TRỌ

 ( Tiếp theo và hết )   

 

15. Cầu Cho Tổ Tiên

 

 Từ trần là một biến cố lớn. Người từ trần thì giã từ trần thế. Người còn ở lại trần thế thì nói về người đã khuất.

Những người nằm yên lặng quanh đây, trong nghĩa trang này, là người thân của chúng ta. Tất cả đều đã giã từ trần thế.

Hôm nay, chúng ta, những người còn ở lại, hội tụ về đây trong niềm thương nhớ, không phải để chúc tuổi những người đã khuất, bởi ở thế giới bên kia, mọi cây kim đồng hồ đều ngừng chạy, làm gì còn năm, còn tuổi để cầu với chúc.

Nhưng ta ra đây, trong cái im lặng nhiệm mầu này, để nhìn về quá khứ, để học cho mình những bài học kinh nghiệm quý báu. Nói một cách khác đi, học kinh nghiệm, là học lấy sự khôn ngoan cho cuộc đời.

 Bài học thứ nhất ta học được nơi đây là

 Thân phận con người rất mỏng manh.

Nhớ lại những lần nhức đầu, lên sốt, những lần đau răng, cộm mắt. Nhìn những người đau liệt trên giường, những người trúng gió, tai biến, chứng kiến những lần đụng xe hằng ngày nhiều như cơm bữa, ta thấy xác người thật quá mỏng manh.

Nghĩ về những yếu đuối trong tâm hồn. Không làm chủ được cơn nóng, không kềm chế được cơn tức giận. Không vượt được những lời nói chê bai, hay cay chua, khiến hồn mình buồn bã. Có những lầm lỗi, cố gắng mãi mà cứ hoài vấp lại. Tất cả sự thật bẽ bàng ấy, tỏ lộ cho ta thấy, linh hồn mình cũng thật yếu đuối.

Cho nên bài học lúc này, là hãy biết nhìn xa hơn. Hãy nhìn và nghĩ về vùng đất nằm đằng sau cái chết, để mà chuẩn bị và gầy dựng cho tương lai đời mình

 Bài học thứ hai ta học được nơi những người đã khuất là

 Hãy biết sử dụng tốt thời gian.

Thời gian là gia tài quý báu mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Tất cả mọi chuyện đời người đều xảy ra trong thời gian. Người ta chỉ một lần có thời gian. Giờ chết đến. Con người bị trượt ra vòng xoay của dòng thời gian. Có thời gian trăm năm như nhau. Nhưng cách sử dụng thời gian làm giá trị đời người khác nhau. Có người đã biết dùng từng phút giây, để làm ích lợi, làm đẹp cho hiện tại và tương lai của mình. Chẳng những cho cuộc sống trần thế, mà còn cho cuộc sống trong cõi vĩnh hằng.

Rất đông người, đã để thời gian trôi đi phí phạm. Cũng có đầy người, bôi đầy nhơ nhớp, nhuộm đầy đen đúa vào dòng thời gian. Hay tệ hơn, có những người đã hủy hoại thời gian, để làm khổ đời mình, khi lao đầu vào những ly rượu say mềm, vào những canh bạc dại dột, hay vào những làn khói trắng chết người. Tất cả đã tự hủy chính mình: làm hiện tại đời mình băng hoại, mà còn đốt cháy cả tương lai.

 Bài học thứ ba

 Hãy làm đời mình thành giá trị, bằng sự biết phục vụ.

Sự phục vụ chính là sự diễn nghĩa của tình yêu. Tình yêu sẽ được đáp trả lại bằng tình yêu. Sau khi nhắm mắt, xuôi tay, tất cả mọi thứ gọi là vật chất, đều thành hư vô, chỉ có tình yêu là còn.

Bởi vậy, lúc còn đang bơi trong dòng thời gian, xin người hãy dệt chữ “yêu” cho tha thiết. Thể hiện chữ yêu ấy bằng sự phục vụ.

Phục vụ Chúa, bằng việc thi hành ý muốn của Chúa. Ý muốn của Chúa là ước mong ta luôn gần gũi và chuyện vãn với Ngài. Gần gũi Ngài trong thánh lễ, trong những lời dạy dỗ của Ngài trong Thánh Kinh.

Song song sự phục vụ Chúa, là phải biết phục vụ tha nhân, anh em của mình. Từ trong gia đình, đến ngoài xã hội.

Sự phục vụ luôn đòi hy sinh. Hy sinh nào mà chẳng tê tái, thua thiệt. Sự hy sinh luôn xảy ra trong sự yên lặng. Nhưng có ai ngờ đâu, trong bóng tối ấy, khuôn mặt của hy sinh đẹp vô vàn, bởi rọi sáng lên mới biết, khuôn mặt của hy sinh, lại chính là khuôn mặt của tình yêu.

 

 16. Được Tôn Vinh

 

 “Lạy Cha, đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12,23).

Hấp hối, tắt thở bao giờ cũng là một nỗi xót xa. Càng thân, càng thương, nỗi lòng càng tê tái.

Xót xa cho người vừa nhắm mắt, bởi từ nay tình thương bị chia phân, cắt rời.

Thế nhưng, lạ lùng làm sao, trước giây phút bi thương tắt thở, Chúa Giêsu đã không khóc, mà lại hát lên, hát lên ca khúc tạ ơn:

 “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”.

 Chết là thua thiệt, mất mát, chứ sao lại là tôn vinh?

Không, đúng rồi, Chúa Giêsu coi giờ chết của mình, là giây phút Thiên Chúa Cha được tôn vinh: Ý muốn của Chúa Cha, đã được thể hiện trọn vẹn nơi người Con. Chúa Cha đã muốn, đường cứu độ duy nhất, là phải kinh qua đường đau khổ, mà tột cùng của đường đau khổ là cái chết. Chân lý này, đã được Chúa Giêsu thi hành cách trọn hảo.

Giờ Chúa chết là giờ Tình Yêu được tôn vinh.

Qua cái chết người ta mới thấy hết được tình yêu dốc cạn của Chúa Giêsu. Vì yêu con người bằng một tình yêu nồng nàn và da diết, Người đã chấp nhận tất cả, dù là phải chết oan ức, tủi hờn, cô đơn. Để tình yêu được rực sáng. Vì yêu mà Ngài chết, Ngài chết oan ức, bi thương, chỉ vì bởi con người, và cho con người.

Cụ bà Maria hôm nay cũng vừa chết.

Cũng là giây phút tình yêu được tôn vinh.

Vì yêu con, yêu cháu, mà cụ đã cạn kiệt hết sức lực. Không cạn kiệt sao được, khi một thân thể mảnh mai, nhỏ bé, phải san sẻ thành 8 phần sự sống cho 8 đứa con.

Công cưu mang trời biển, đành rồi. Nhưng khổ đầy và trĩu nặng đôi vai, chính là phải chắt chiu nuôi nấng 8 người con, 8 bộ óc, 8 tính tình phức tạp. Răn bảo làm sao, dạy dỗ làm sao cho nên người, nên con Thiên Chúa?

Dạy dỗ cho con nên người đã khó, dạy con nên con Thiên Chúa lại càng khổ ải và nhiêu khê hơn nhiều.

Nhưng thật may mắn, giờ này cụ bà Maria nằm xuống mà vẫn có thể mãn nguyện rạng rỡ một nụ cười. Đó là tất cả 8 người con, luôn sống thủy chung với Chúa, trong đời sống đức tin của mình.

Nhưng để có được niềm hạnh phúc như thế, cụ bà Maria đã trả bằng một giá rất đắt. Nhưng cũng chính vì giá ấy, mà bà được tôn vinh.

Như Chúa bảo: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình. Nhưng nếu nó thối đi, sẽ sinh nhiều bông hạt”.

Nếu thế giới này, có nhiều người mến yêu Chúa Giêsu, thì không phải bởi những phép lạ Người làm, mà chính vì tình yêu hy sinh của Chúa, Ngài đã chấp nhận mọi đau khổ vì tình yêu.

Có ai thấy được, sự thối đi đau đớn của bà trong những lời kinh, và sự hy sinh nín lặng.

Trong suốt đời, bà luôn cố gắng hoàn thành bổn phận của một người con Chúa. Ngoài ra, trong những khi yên ắng, những khi tối trời, cụ bà Maria cũng  ngước mắt về trời cao. Thầm thỉ dâng lên Mẹ Maria những lời kinh Mân Côi nồng thắm, để cầu cho con, đang phiêu bạt nơi xa.

Hạt giống ấy, cũng muốn thối đi, trong những hy sinh thầm kín nhịn nhục. Những hy sinh trong việc bác ái, trong việc đóng góp cho việc mở mang của Giáo Hội. Hy sinh nào cũng thua thiệt. Hy sinh nào lại chả đớn đau.

Hôm nay, bà Maria nằm xuống. Một nỗi buồn to lớn chợt ùa xuống trên gia đình và gia tộc.

Có những dải khăn tang đủ màu, được kết lên đầu. Vừa để khóc thương, vừa để nhung nhớ, vừa để hy sinh.

Mẹ ơi, giờ này con xin kết lên dải khăn tang để khóc thương mẹ.

Bà ơi, con cũng xin kết vội dải khăn tang này trên trán đây, để nhớ thương bà.

 

 17. Ngọn Nến

 

 Trên những nấm mộ giờ này, có cắm lên vô vàn những ngọn nến cháy.

Cắm lên mộ người thân những ngọn nến lung linh, phải chăng đang muốn cắm lên đó Ngọn Lửa Tình Yêu đang rực cháy trong trái tim mình.

Có thể là ngọn lửa tình xưa nhung nhớ. Một nỗi nhớ khôn nguôi, không sao dập tắt.

Có thể là ngọn lửa của tình tiếc thương, hiếu thảo của con cháu.

Có thể là ngọn lửa của tình sầu hối hận, bởi thái độ tệ bạc đáng trách của mình, đã dành cho người quá cố lúc còn sống.

Nhưng có một điều rất chung, rất đặc biệt, không hẹn mà gặp là khi cắm những ngọn nến sáng lên những nấm mộ, ai cũng muốn coi đó như là những lời kinh huyền diệu tỏ ra từ tận cõi lòng, mong sao bay lên tới cõi thiên đường nhiệm mầu, để cầu cho những người thân yêu đã khuất.

Và rất đổi linh thiêng, nhìn sâu vào ngọn lửa đang cháy bập bùng, ai đó có thể nhìn thấy khuôn mặt của mẹ, của cha, của chồng, của vợ, của con, của cháu đang hiện ra phất phơ trong đó, và qua cái linh thiêng của ánh lửa, có thể bắt gặp những đôi mắt u uẩn, sầu buồn, bởi tiếc thương cho một đời đã sống vô nghĩa, không làm được gì cho người khác, cho gia nghiệp đời sau của mình. U uẩn, vì khi còn sống, vì quá lo lắng cho đời sống vật chất của gia đình, mà xao lãng chễnh mảng công việc thờ phượng Chúa, để rồi bây giờ phải bối rối khi trả lẽ trước mặt Ngài.

Có khi vì quá thương vợ, thương con, muốn cho gia đình dồi dào của cải vật chất, mà mình lại thành những kẻ gian dối, lừa đảo, tham nhũng, để rồi ra trước tòa Chúa. Sự công bằng vô cùng của Ngài bắt phải đền bù. Cả nhà cũng hưởng, mà giờ này, chỉ một mình, phải ôm lấy nợ đời. Thật cay đắng xót xa.

Có khi vì quá nuông chiều con cái. Chỉ lo lắng chăm chút cho con về đời phần xác, chẳng quan tâm đủ đến phần hồn cho con. Để con cái thành những kẻ ngông cuồng. Bóp nát đức tin, đút lương tâm vào túi quần, để làm những chuyện suy đồi. Bây giờ Chúa hỏi về trách nhiệm, biết trả lời ra sao?

U uẩn bởi những thiếu sót trong bổn phận làm cha mẹ. Để lại cho con những gương xấu. Những lời nói tục tĩu, những thói quên rượu chè, bài bạc… những sự khô khan trong đời sống đức tin, để rồi bây giờ, tất cả đã hằn sâu trong tâm trí con cái, khíến chúng còn rất trẻ, đã sớm học được những tệ nạn, khó bề biến đổi. Những đôi mắt u uẩn, bởi trong luyện tội, giờ đã hết cơ hội để lập công. Bởi hối hận vì đã không nghe lời Chúa dặn: “Có làm gì, thì hãy làm lúc trời còn sáng, kẻo tối đến thì đã muộn rồi”.

Những đôi mắt ấy u uẩn hắt hiu, ẩn chứa nhiều điều tâm sự muốn nói, mà không sao nói lên thành lời. Phải chăng các ngài muốn nhắc về những sự thật phũ phàng:

Chẳng ai sống mãi được đâu.

Cái chết sẽ đến bất ngờ, không hề báo trước.

Bởi vậy, muốn làm gì đó thì làm.

Muốn xoay xở xuôi ngược ngược xuôi tùy thích. Nhưng điều hệ trọng, là đừng bao giờ bỏ quên phần linh hồn.

Tiếc xót bao nhiêu bây giờ cũng đã trễ.

Những nấm mộ trắng xóa cạnh ta bây giờ là một dấu chứng. Rồi có một ngày, trên tấm bia nấm mộ sẽ có tên ta. Cũng là một nấm mộ ốp lát gạch trắng như bao mộ khác.

Nhưng điều ấy chẳng hề quan trọng. Quan trọng chăng là liệu linh hồn ta có được tinh tuyền, để có thể nhẹ nhàng thanh thoát hưởng hạnh phúc đời đời.

Giữa nghĩa địa thênh thang nhưng ấm áp tình nghĩa giờ này, hình như có sự hiện diện của vong hồn những người đã khuất.

Tình thương yêu được nối kết mặn mà. Để thương nhau nhiều hơn. Nhưng thương nhau không chỉ bằng lý thuyết, mà giá trị ở hành động. Hãy làm gì đó cho những người thân yêu, và xin đừng quên, những lời nhắc nhở của các ngài từ bên kia thế giới vọng về./.

 

 

 

 CÙNG MỘT TÁC GIẢ

 

 

 ĐÃ RA:

Cắt nghĩa giáo lý bằng truyện.

Nơi bờ bên kia.

Cho tình nồng say.

Giọt nước mắt hồng.

Giã từ quán trọ

 

SẮP RA:

Cho tình nồng say (tập 2)

Đàn ông đàn bà tội lỗi.

Bài giảng những ngày lễ trọng.

 

 Viết cho Cha Jos Vũ Xuân Huyên

 

 

Mục lục

 

 

 

 


 

[1][1] Đại Nam Quấc Âm tự vị, trang 720, Hùinh tịnh Paulus Của, Nxb Trẻ, 1998. 

[2][2] Nếp sống tình cảm của người Việt Nam , trang 163, Lê văn Siêu, NXB Cà Mau, 1993.

[3][3] Lễ ký, Kinh điển về việc Lễ, biên soạn Nhữ Nguyên, trang 191, NXB Đồng Nai, 1996.

[4][4] Is 38, 10 – 14. 17 – 20.

[5][5] Lễ ký, Kinh điển về việc Lễ, biên soạn Nhữ Nguyên, trang 192, NXB Đồng Nai, 1996.

[6][6] Tập văn cúng gia tiên, trang 58, Tân Việt sưu tầm, NXb văn hoá dân tộc, 1999.